
Nhưng thật bất ngờ, tác giả hạ một câu đại để thế này: “Đã bao nhiêu năm trôi qua, nếm đủ mùi sung sướng trên cuộc đời này, tôi vẫn chẳng thể nào quên được mùi mồ hôi, mùi áo quần được giặt giũ thơm tho của mẹ. Và mùi bánh mì mẹ làm trong bếp. Thế thì các vị tranh đấu cho nữ quyền, đòi hỏi bình đẳng giới kia ơi, các vị làm sao thuyết phục lão già này được?”
Có thể, những hồi ức rất đẹp của người viết kia là đầy tính cá vị và không phổ quát. Nhưng nó đã nói lên một chân lý đơn giản: sự bình đẳng giới không thể, và không bao giờ là việc cho rằng phụ nữ có thể, và nên làm tất tần tật những công việc của nam giới để thể hiện cái gọi là “sự bình đẳng giới”.

Với những tình cảm tương tự, nhiều người Việt Nam cũng sẽ dễ dàng bồi hồi nhớ lại bếp lửa của mẹ, của bà trong ngày 8.3, nếu như họ không mê mải với các lễ lạt chúc tụng, tặng hoa cho những người phụ nữ khác. Những ký ức rất chân thành đó sẽ dễ dàng dẫn họ về với mùi rơm rạ, mùi khói, mùi cơm chín tới… của một góc bếp nghèo nào đó, sâu thẳm trong trí nhớ.
Những tình cảm thật thà như vậy là đẹp! Và chỉ cần một chút văn tài, người ta sẽ dễ dàng đánh đồng những hình ảnh bếp nghèo đen đúa, tối tăm đó thành những đức tính vĩ đại của người phụ nữ Việt Nam: chịu thương chịu khó, nhẫn nại chiến đấu với sự bần hàn, lam lũ…Theo kiểu Tú Xương cảm thán thương vợ:
Quanh năm buôn bán ở mom sông.
Nuôi đủ năm con với một chồng”
Một cách vô thức, hình ảnh đẹp của người đàn bà Việt Nam được đánh đồng với sự nghèo khó, bần hàn, tủi cực… Và được tôn vinh với kha khá tiếc nuối (thành thật lẫn giả tạo)

Vì sự bần hàn chưa bao giờ là một giá trị đáng tôn vinh cả! Ta nên mong ước sự sung sướng, no đủ cho những người phụ nữ của đời mình.
Đó là chưa tính đến, nhiều khi trong sự vất vả đó, có sự tham dự của một người đàn ông thất thời, bất lực như trường hợp của cụ Tú thành Nam với những thói hư tật xấu như “cao lâu thường ăn quịt, thổ đĩ lại chơi lường”.

Lịch sử Việt Nam dày đặc những bậc nữ kiệt “giỏi việc nước”. Đến nỗi nhớ lại chuyện xưa, người viết không thể không kinh ngạc vì chưa hề biết đến lịch sử một dân tộc nào mà các bậc nữ anh hùng lại xuất hiện nhiều và oanh liệt đến thế. Từ Nhị Trưng trả nợ nước thù nhà, cho đến bà Triệu, kẻ muốn “đạp luồng sóng dữ”, đến bà Bùi Thị Xuân, cô Bắc, cô Giang… Thật tiếc, ngoài những ghi chép lịch sử, chúng ta không có một bức hình họa chân xác về dung mạo của các bậc nữ lưu này. Họ đẹp hay xấu, duyên dáng hay cục mịch, đảm đang hay thô vụng…? Thật tiếc khi chúng ta không am tường về công dung ngôn hạnh của họ như với những điều hiển hách đã ghi vào sử xanh.
Hai nữ sinh Trưng Vương cưỡi voi diễn hành trong ngày lễ Hai Bà Trưng tại Sài Gòn
Ắt hẳn, họ là những giai nhân kiều diễm. Trước nhất vì gia thế quyền quí, hay nơi chốn nề nếp mà họ xuất thân. Họ là những người phụ nữ được giáo dục nghiêm cẩn, hẳn thế. Và không túng cực quanh năm để bán mặt cho đất bán lưng cho trời. Nên tôi thật thà mong mỏi, và tin tưởng tột bực các bậc nữ lưu của chúng ta là những lady – quí bà thanh tú, đẹp đẽ, có học vấn hơn người. Những người tổ chức lễ hội Hai Bà Trưng cưỡi voi trận trên đường phố Sài Gòn năm xưa ắt cũng tin tưởng như tôi, nên mới khắt khe chọn những nữ sinh con nhà gia thế, dung nhan kiều mị, học hành giỏi giang… để mặc áo dài, đóng khăn vành đóng thế Hai Bà.
Nói chuyện xưa để gật gù tự thán: sự nghèo túng và thiểu năng về giáo dục không bao giờ làm nên cái đẹp của người phụ nữ cả. Chỉ trong một xã hội ấm no, và lấy các giá trị nhân bản làm đầu, mới có thể sản sinh những bậc mệnh phụ, những bậc mẫu nghi thiên hạ đúng nghĩa, và cả những người đàn bà đẹp từ trong lẫn ngoài. Nói theo Karl Marx: “con người là tổng hòa của các quan hệ xã hội”, chừng nào chúng ta còn xót xa với những người con gái Việt đi làm dâu xứ người như một cách thoát nghèo, chừng nào họ còn làm nghề bán thân không phải để nuôi miệng mà để học thói xa hoa, chừng đó chúng ta còn phải đấm ngực ăn năn. Thay cho các lễ hội cờ đèn kèn trống ngoài kia.
Nói chuyện xưa để gật gù tự thán: sự nghèo túng và thiểu năng về giáo dục không bao giờ làm nên cái đẹp của người phụ nữ cả. Chỉ trong một xã hội ấm no, và lấy các giá trị nhân bản làm đầu, mới có thể sản sinh những bậc mệnh phụ, những bậc mẫu nghi thiên hạ đúng nghĩa, và cả những người đàn bà đẹp từ trong lẫn ngoài. Nói theo Karl Marx: “con người là tổng hòa của các quan hệ xã hội”, chừng nào chúng ta còn xót xa với những người con gái Việt đi làm dâu xứ người như một cách thoát nghèo, chừng nào họ còn làm nghề bán thân không phải để nuôi miệng mà để học thói xa hoa, chừng đó chúng ta còn phải đấm ngực ăn năn. Thay cho các lễ hội cờ đèn kèn trống ngoài kia.

Do đó, người viết bài này hoàn toàn thờ ơ với một ngày 8.3 đã bị thương mại và chính trị hóa một cách thô thiển. Ngày này, chỉ là một cái cớ để thầm mong mỏi một mai kia, nét đẹp Việt nhuần nhị, sang cả, đài các và đầy tính nữ lại tỏa hương.
Như nó vốn phải thế, và đã từng như thế!
Dr. Nikonian
No comments:
Post a Comment
Cám ơn bạn đã đọc bài và nhận xét!