Gần đây có ý kiến cho rằng
so với các dân tộc Tây phương, người Việt không có thói quen viết hồi
kí, và điều này có thể là một yếu tố đưa đến tình trạng nghèo nàn của
nền văn học Việt Nam. Dùng cách nói này, có lẽ chúng ta cũng có lí do để
cho rằng sự có mặt khiêm tốn của “văn học đau khổ” có thể là một trong
những yếu tố làm cho văn học Việt Nam thiếu tính phong phú. Ít ai biết
rằng viết văn có hiệu quả tốt cho sức khoẻ …
Đã từ lâu tôi vẫn nghĩ
rằng một trong những đề tài phong phú cho văn học là nỗi đau khổ của con
người, nhưng lại là đề tài ít được giới cầm bút khai thác. Nói “đau
khổ” ở đây, tôi không có ý đề cập đến những nỗi đau trừu tượng, triết
lí, kiểu như “thân phận lạc loài”, cô đơn, hoài niệm, bâng khuâng, v.v.
mà là sự đau khổ của thân xác do bệnh tật gây nên. Đó là những nỗi đau
gần gụi nhất với một cá nhân, là cái mà cá nhân con người có thể cảm
được, kinh nghiệm qua được. Ấy thế mà kiểm lại số lượng tác phẩm và tác
giả viết về đề tài này trong nền văn học Việt Nam, chúng ta thấy sự có
mặt của thể loại văn học này cực kì khiêm tốn. Ngoài trừ trường hợp của
Hàn Mặc Tử (hay ở một khía cạnh nào đó, Nguyễn Đình Chiểu), hầu như
không mấy ai phơi bày và gửi gấm nỗi đau khổ của thân xác và bệnh tật
trên trang giấy.
Trong cuốn Illness narrative – Kể chuyện bệnh tật,
tác giả Arthur Kleinman, nhận xét rằng trong khoa học lâm sàng và khoa
học hành vi không có một phạm trù nào để mô tả sự đau đớn, và cũng không
có một phương cách nào để ghi chép cái khía cạnh rất nhân tính này của
bệnh nhân và gia đình bệnh nhân. Những thước đo dùng để đánh giá chất
lượng cuộc sống, triệu chứng, hay mức độ bệnh tật đều thất bại một cách
thê thảm, bởi vì những chỉ số lâm sàng này không bao giờ phản ánh được
những sự chịu đựng mang tính chất rất riêng tư và rất nội tâm của người
bị bệnh. Làm giảm áp suất máu 5 hay 10 mmHg có thể xem là một thành công
lâm sàng, nhưng có chắc bệnh nhân cũng có cảm nhận đó hay không? Kéo
dài cuộc sống của một bệnh nhân được 6 tháng đang trong tình trạng cuối
cùng của căn bệnh có thể là một chiến thắng của y học, nhưng chưa hẳn là
chiến thắng của người bị bệnh vì 6 tháng đó có thể là 6 tháng sống
trong đau đớn cùng cực.
Trong số báo ra ngày 14 tháng Tư năm 1999, Tập san Hiệp hội Y khoa Mĩ (Journal of the American Medical Association)
công bố kết quả thử nghiệm về tác dụng của viết văn đến các triệu chứng
liên quan đến bệnh suyễn và viêm khớp xương [1]. Trong cuộc nghiên cứu
hi hữu này, các nhà nghiên cứu yêu cầu bệnh nhân viết văn khoảng 20 phút
mỗi ngày, trong ba ngày liên tiếp mỗi tuần. Các bệnh nhân được chia
thành hai nhóm: trong nhóm một, đề tài viết là những kinh nghiệm của
bệnh nhân trong việc đấu tranh chống trả với bệnh tật, hay những câu
chuyện mà bệnh nhân cho là căng thẳng trong cuộc sống của họ; trong nhóm
hai, các nhà nghiên cứu chỉ yêu cầu bệnh nhân viết ra những kế hoạch
làm việc trong ngày. Sau 4 tháng thử nghiệm, tình trạng sức khỏe của
bệnh nhân thuộc nhóm một trở nên tốt hơn một cách đáng kể, trong khi sức
khỏe của các bệnh nhân nhóm hai không thay đổi . Tác giả của công
trình nghiên cứu này cho rằng đây là một bằng chứng khoa học đầu tiên
cho thấy viết văn có tác dụng tích cực đến sức khỏe. Kết quả này gây cảm
hứng cho một nhà nghiên cứu khác viết một bài xã luận trên tập san y
học danh tiếng này.
Thực ra, kết quả của cuộc
thử nghiệm trên đây không phải là bằng chứng đầu tiên về lợi ích của
viết văn đối với sức khỏe bệnh nhân. Trước đó, một số nhà nghiên cứu
trên thế giới đã từng tiến hành một loạt thử nghiệm về ảnh hưởng của
viết văn đến sức khỏe, và kết quả có thể tóm lược như sau: viết văn đem
lại lợi ích cho nhiều thành phần xã hội, thuộc mọi sắc dân, với bất cứ
trình độ học vấn nào, mà không chỉ trong những người có năng khiếu về
văn chương. Ảnh hưởng tích cực của viết văn đến sức khỏe và thái độ ứng
xử được ghi nhận trong các tù nhân, sinh viên y khoa, nạn nhân của những
vụ bạo hành trong gia đình, bệnh nhân bị bệnh viêm khớp xương và các
bệnh kinh niên, đàn ông bị mất việc làm, và đàn bà mới sinh nở. Những
ảnh hưởng này thường được biểu hiện qua các thông số về hệ thống miễn
nhiễm, giảm đau, giảm số lần đi tham vấn bác sĩ gia đình, và chất lượng
cuộc sống. Những sinh viên tham dự vào các cuộc thử nghiệm như thế cho
biết họ cảm thấy viết văn có giá trị lớn đối với cuộc sống của họ. Một
số sinh viên, ngày thường tỏ ra rất vô tình, lộn xộn, nhưng khi viết về
những kinh nghiệm đau buồn trong đời, họ lại viết rất khúc chiết, mạch
lạc và ít lỗi văn phạm!
Mặc dù so với lĩnh vực
nghiên cứu sinh học và lâm sàng, các nghiên cứu về mối liên hệ giữa viết
văn và sức khỏe vẫn còn khiêm tốn. Tuy nhiên, bằng chứng trong vòng một
thập niên qua cho thấy một cách nhất quán là việc thuật lại những câu
chuyện mang tính cách cá nhân hay đau buồn bằng viết văn hay bằng lời
nói có ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất con người. Nhưng câu hỏi được đặt
ra ngay là “tại sao?” Tại sao viết văn có thể đem lại lợi ích cho sức
khỏe? Để giải thích mối liên hệ này, giới nghiên cứu y khoa có thể đề
nghị một số mô hình sinh lí liên quan đến mối tương ác giữa tinh thần và
thể xác con người, một mối quan hệ mà giới y khoa chính thống đã bỏ
quên trong nhiều thập niên. Tuy nhiên, thay vì giải thích bằng mô hình
sinh lí học, tôi muốn đề nghị một mô hình khác liên quan đến chữ nghĩa
và triệu chứng của căn bệnh, đến cái có thể thấy được và cái không thể
thấy được, một mối quan hệ dựa vào y học và ngôn ngữ diễn đạt, huyền
thoại, và thể văn tường thuật trong việc trị liệu.
Ngôn ngữ và xúc cảm
Một giải thích có thể đề
nghị ra ngay là qua diễn đạt lại những xúc cảm người ta trở nên có ý
thức về sức khỏe hơn và từ đó thay đổi thái độ với thái độ và cách sống
hàng ngày. Tuy nhiên, chưa có bằng chứng khoa học nào phù hợp với giả
thuyết này. Thực ra, một vài nghiên cứu cho thấy sau khi viết lại những
câu chuyện đau buồn trong đời người ta vẫn không thay đổi cách sống một
cách đáng kể. Người hút thuốc vẫn hút thuốc, người nghiện rượu vẫn tiếp
tục dùng rượu.
Một giả thuyết thứ hai là
viết văn tự nó là một việc làm tự mình phát biểu. Giới tâm lí học vẫn
tin rằng những biểu hiện bằng vũ điệu, nhạc, và mĩ thuật có giá trị trị
liệu. Tương tự, người ta có thể cho rằng quá trình viết văn là một hành
động tự biểu hiện của một cá nhân. Thực vậy, trong một nghiên cứu, mà
trong đó các nhà nghiên cứu ghi nhận rằng những người diễn tả lại những
câu chuyện đau buồn bằng cách viết văn caocó mức độ bình phục nhanh hơn
so với những người diễn tả lại những câu chuyện đau buồn bằng tay chân.
Do đó, chỉ đơn thuần mô tả một kinh nghiệm bằng cơ thể không có hiệu
quả cho sức khỏe bằng cách mô tả những kinh nghiệm đó thành chữ viết.
Giả thuyết thứ ba về mối
liên hệ giữa viết văn và sức khỏe cho rằng viết văn là một quá trình
biến đổi những xúc cảm và hình ảnh vào ngôn từ, và chính cái quá trình
chuyển hóa này làm thay đổi suy nghĩ và nhận thức của người viết về
những kinh nghiệm đó. Ở đây cần phải nói thêm là một phần của những nỗi
đau khổ của một cá nhân không hẳn do một sự kiện nào đó gây nên, mà còn
do chính phản ứng cảm tính của cá nhân đó trước sự kiện. Qua việc sắp
xếp các ý nghĩ và cảm tưởng, người ta có thể xây dựng hay tái xây dựng
câu chuyện một cách có hệ thống. Một khi câu chuyện đã được hình thành,
nó được tổng kết, dự trữ, và dễ quên sau đó.
(Còn nữa)
http://nguyenvantuan.net
No comments:
Post a Comment
Cám ơn bạn đã đọc bài và nhận xét!