Nhà văn Hoàng Lại Giang |
Nếu phải chọn một trong hai hình
thái trên, tôi chọn ”DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH “. Bởi “Bạo lực cách mạng“ là
bước đường cùng để nhân dân bằng “sức mạnh cứng” của mình đập tan một
thể chế chính trị tàn bạo, tham nhũng, một thể chế đối lập với nhân dân
về mọi phương diện, trong thể chế ấy mọi quyền của dân đều bị tước đoạt
và kẻ cầm quyền lộng hành … đẩy dân vào con đường cùng. Tức nước vỡ bờ,
trên thực tế đây là sự đối đầu một sống một chết giữa nhân dân – kẻ bị
trị và bên kia là kẻ cầm quyền – kẻ thống trị nắm giữ mọi quyền lực. Với
tôi dù bên nào thắng thì vẫn gây ra những tấn thảm kịch cho nhân dân,
dẫn đất nước vào chỗ suy vong.
Nhưng nói thế không có nghĩa là
tôi vô cảm với những cuộc “BẠO LỰC CÁCH MẠNG“ của nhân dân 13 xứ thuộc
địa Anh cùng đứng dậy giành lại nền độc lập từ tay thực dân Anh và từ đó
xây nên bản Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1791 ,trong đó có 10 tu chính án như
đóng đinh vào lịch sử tiến hoá của nhân loại về quyền của con người và
quyền của kẻ cai trị, trong đó dân có quyền “Tự do ngôn luận, tự do báo
chí và tự do tôn giáo …” Và cuộc “Bạo lực cách mạng” Pháp năm 1789-1799.
Tuyên ngôn nhân quyền từ cuộc “Bạo lực cách mạng” này cho tới hôm nay
vẫn là điểm son mà loài người tiến bộ nhớ ơn: “…Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. “Nguyên
tắc chủ yếu đặt ở chủ quyền Quốc gia. Không một tổ chức, không một cá
nhân nào có thể sử dụng quyền hành mà không xuất phát từ nguyên tắc đó”.
Chính những cuộc “Bạo lực cách
mạng” trên đã tước đi những quyền mang tính tuyệt đối của các nhà cầm
quyền độc tài, toàn trị, sa đoạ, và buộc họ phải coi dân làm trọng.
Cách mạng tháng Mười năm 1917 là “Bạo lực cách mạng” lật đổ chế
độ Sa Hoàng bằng sức mạnh cứng của nhân dân và quân đội. Nhưng cuộc
cách mạng tháng Tám năm 1945 của ta lại là cuộc “Diễn biến hoà bình”.
Con đường thành công của cách mạng tháng Tám là cuộc tuyên truyền, vận
động nhân dân…và chờ thời cơ chín muồi, chuyển hoá một chính thể thực
dân – phong kiến sang chính thể dân chủ cộng hoà. Xét trên phương diện
rộng, thì đây chính là chọn lựa của cụ Phan Chu Trinh: Khai dân trí,
Chấn dân khí, Hậu dân sinh.
Lịch sử những cuộc chuyển hoá quyền lực
“Diễn biến hoà bình” thực chất là
sự chuyển hoá tư duy. Từ tư duy cũ theo truyền thống, vận động sang tư
duy mới tiến bộ hơn, hợp xu thế thời đại và hợp lòng dân hơn. Rất tiếc
loài người đang ở giữa thập niên 20 của thế kỷ 21 mà một vài quốc gia
như Việt Nam lại không muốn thay đổi tư duy, thậm chí muốn quay lại tư
duy truyền thống theo kiểu phong kiến, nghĩa là ai giành được nước thì
sẽ giữ độc quyền cai trị dân hết thế hệ này sang thế hệ khác. Nếu trước
đây theo kiểu cha truyền con nối thì ngày nay theo nhóm lợi ích có tôn
chỉ mục đích đậm nét hình thức. Trên thực tế chính sách mị dân thuở ban
sơ ấy đã mất lòng tin trong dân từ lâu lắm rồi. Quyền lực từ xưa tới nay
bao giờ cũng có sức mê hoặc rất lớn, có sức hút đáng sợ, ngay cả những
chính khách hay nhà văn hoá lớn cũng không dễ rứt ra được; và nếu quyền
lực rơi vào tay những kẻ chủ yếu lao động bằng cơ bắp, mang “thành phần
cơ bản”, thì quyền lực là mối nguy hiểm cho cả dân tộc! Và vì vậy họ rất
sợ “Diễn biến hoà bình”. Những lý giải sai lệch “Diễn biến hoà bình”
của họ hoàn toàn dựa theo cảm tính chủ quan, thiếu cơ sở khoa học và
thực tiễn lịch sử. Hãy đọc lại lịch sử nước nhà để thấy “Diễn biến hoà
bình” là tất yếu của sự tiến hoá loài người, không có gì phải lo sợ.
Lịch sử Đại Việt còn ghi rõ ở
triều Đinh, Đinh Tuệ lên ngôi lúc 6 tuổi. Vào lúc quân Tống chuẩn bị xâm
chiếm nước ta, cả triều thần tôn Lê Hoàn lên ngôi. Thái hậu họ Dương,
vượt qua lệ ước dòng họ, đã đứng về phía Lê Hoàn, chấp nhận phế đế,
chung lòng chống kẻ thù tuyền kiếp của Đại Việt. Cuộc phế lập trong ôn
hoà của Dương Thái hậu và đình thần triều Đinh đã xoay chuyển tình thế,
làm chỗ dựa cho cuộc chống Tống kết quả và đưa nhà tiền Lê vào lịch sử
như một vương triều có công chống xâm lược của Đại Việt.
Cuối nhà tiền Lê, bắt đầu bằng
cuộc tranh giành ngôi vương và sự bạo ngược của Lê Long Đỉnh …Triều thần
tiền Lê đã sáng suốt tôn Lý Công Uẩn lên ngôi. Tất nhiên công đầu thuộc
về nhà sư Vạn Hạnh. Không ngờ đây lại là một triều đại có tầm nhìn của
trăm năm, nghìn năm, cấp tiến, để lại cho hậu thế những di sản văn hoá
vật thể và phi vật thể sáng giá cho đến tận hôm nay. Văn hoá đời Lý là
văn hoá từ bi hỷ xả của Phật giáo. Nhớ lại cuối thời tiền Lê, xã hội Đại
Việt lấy quyền lực làm quốc sách, anh em tranh giành nhau quyền lực,
giết hại nhau vì quyền lực, tàn bạo, sa đọạ, dâm đãng … mới thấy Lý Thái
tổ tôn vinh Phật giáo, lấy tư tưởng nhà Phật làm tư tưởng chính thống
của Đại Việt là có lý do của Ngài. Con người ấy, tư tưởng ấy, tầm nhìn
ấy đã không do dự dời đô về La Thành – Đại La và sau đổi thành Thăng
Long. Về chính trị, ngoại giao,… Lý Thái Tổ đã tự mình làm gương, bắt
các thái tử phải cầm quân ra trận. Dư âm của các sứ quân, rồi Chiêm
Thành, Chân Lạp đều lo sợ không còn đất sống, phải triều cống Đại Việt
để “bảo toàn đất nước và sinh mạng nhân dân”. Đại Việt bước vào thời kỳ
nước yên, biển lặng, giặc Tống cũng nể sợ, muốn mà không dám gây hấn.
Vua tôi đồng lòng, đấy là thời kỳ
giữa vua và dân ít có khoảng cách nhất. Suy đi ngẫm lại, phế và lập
theo con đường “Diễn biến hoà bình” là cần thiết cho một xã hội tàn bạo,
hủ bại, tham nhũng, hách dịch, chuyên quyền chuyển hoá bằng con đường
hoà bình sang một xã hội tiến bộ hơn, tốt đẹp hơn, nhân ái và hợp lòng
dân hơn mà ít tốn xương máu, thì ai lại nỡ lên án, thậm chí căm thù,
dùng quyền lực mà triệt tiêu.
“Quân sư” cho “diễn biến hoà
bình” ở Việt Nam là Trần Thủ Độ. Nếu không có sự tận diệt con cháu nhà
Lý cho chắc vương triều Trần vô cùng dã man thì đây là cuộc chuyển giao
quyền lực đẹp nhất từ vương triều Lý đang suy vong sang vương triều Trần
đầy sinh lực. Lịch sử không có “giá như”, nếu cho phép “giá như” thì
tôi “giá như” không có cuộc phế lập bằng con đường “Diễn biến hoà bình”
này, thì Đại Việt ta chắc khó bề đương nổi với đế quốc Nguyên Mông hùng
mạnh đang tung vó ngựa từ Đông sang Tây. Chính trong cái hoạ binh đao
Nguyên Mông thế kỷ 13, dân tộc ta xuất hiện nhiều danh tướng và hiền tài
cho tới hôm nay vẫn còn là những vì sao chói sáng trên bầu trời nhân
loại.
Thật là một thiếu sót, nếu lịch
sử quên cuộc phế – lập, “Diễn biến hoà bình” triều đại Lê Thánh Tông.
Triều Lê Nhân tông tưởng suy bởi sự tranh giành quyền lực, các nhóm
triều thần gian xảo làm những cuộc đảo chính, lập thái tử Nghi Dân lên
ngôi. Nhưng chỉ 6 tháng sau, cuộc “Diễn biến hoà bình”của các đại thần
còn chút lòng yêu nước thương nòi đã lập Tư Thành lên ngôi, hiệu là Lê
Thánh tông. Khác với các vua trước cùng thời, Lê Thánh Tông tỏ rõ bản
lĩnh và đức độ của một đấng anh quân, đã khai sáng triều đại mình.
Cho đến hôm nay, là người Việt,
dù có đi bốn phương trời, nhưng không ai không tự hào về đất nước nghìn
năm văn hiến của mình. Nhưng cái gốc của nghìn năm văn hiến khởi nguồn
từ đâu? Tôi nghĩ có thể nó bắt đầu từ đời Lý với việc định đô ra Thăng
Long của Lý Thái tổ, với việc lập Văn Miếu của Lý Thánh Tông… Nét Văn
hoá từ bi hỷ xả sâu đậm nhất ở thời kỳ này.
Văn hiến thời Trần là Hội nghị
Diên Hồng, tìm sự đồng lòng trong công cuộc chống kẻ thù mạnh hơn ta
trăm lần, nghìn lần, là “Sát thát!” với kẻ thù, là văn hoá độ lượng dung
tha, gác lại quá khứ hướng về tương lai của các vua Trần Thánh Tông,
Trần Nhân Tông sau khi thắng trận. Một nét văn hoá đậm tính nhân văn của
cha ông một thời cực đẹp vậy mà ở thời hiện đại nhiều nhà lãnh đạo của
chính thể mới lại e dè, lo ngại và hướng về tư tưởng bảo vệ vương triều
hơn là tư tưởng nhân văn thời Trần. Điều đó tạo nên sự hận thù của người
trong một nước, chứ không hề nghĩ về Hội nghị Diên Hồng, nghĩ về hai
chữ “Sát thát!”, về khoan dung. Nói cách khác, ý thức hệ đã đẩy chủ
nghĩa nhân văn ra khỏi tầm với của nền văn hiến có tự ngàn xưa! Mối nguy
hiểm mà cha ông thời nào cũng cảnh giác là đưa đất nước xích lại gần
hơn với kẻ thù và đẩy nhân dân ra khỏi tầm của Hội nghị Diên Hồng.
Nhưng nét văn hiến nghìn năm đậm
nét nhất là ở văn hoá đời Lê với tư tưởng nhân văn của Nguyễn Trãi, tư
tưởng “Tâm công sách” của nhà văn hoá kiệt xuất này. Sau Nguyễn Trãi là
Lê Thánh tông. Đây là một vị vua để lại sau mình nhiều giá trị văn hoá
vật thể và phi vật thể lớn nhất trong các triều đại. Ngoài việc “định phép thi hương, sửa phép thi hội”
nhằm chọn hiền tài cho đất nước, danh xưng tiến sĩ bắt đầu từ triều đại
này. Trong văn bia đời Lê Thánh Tông, tiến sĩ Thân Nhân Trung để lại
cho hậu thế những câu bất hủ: “… Hiền tài là nguyên khí quốc gia,
nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế
nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh minh không đời nào
không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí
quốc gia làm công việc cần thiết.” Với 24 điều dạy của vua Lê Thánh
Tông, chúng ta cảm nhận được giá trị của một nền văn hoá cốt lõi của
Việt Nam hôm nay: nền văn hoá lấy dân làm trọng, quan lại là nô bộc của
dân, ý dân là ý Trời. Và cũng bắt đầu từ vua Lê Thánh Tông, cương vực
lãnh thổ, trên bộ, trên biển đảo được các quan sở tại trình báo chi tiết
từ nơi mình ở có núi, sông, hồ, biển đảo, … lên triều đình để lập địa
đồ cho nước được chính xác. Ngài còn căn dặn các tướng sĩ:
“Ta phải gìn giữ cho cẩn thận đừng để cho ai lấy một phân núi, một tấc sông của vua Thái Rổ để lại .”
Trần Trọng Kim viết trong “Việt Nam sử lược”:
“… Xem những công việc của vua Thánh Tông thì ngài thật là một đấng anh
quân. Những sự văn trị và võ công ở nước Nam ta không có đời nào thịnh
hơn thời Hồng Đức. Nhờ có vua Thái Tổ thì giang sơn nước Nam mới còn, và
nhờ có vua Thánh Tông thì văn hoá nước ta mới thịnh.”
“Diễn biến hoà bình” không phải như những gì người ta gán ghép
Lật lại lịch sử phát triển Việt
Nam ta thì “Bạo lực cách mạng” thường xảy ra khi cần lật đổ ách đô hộ
của kẻ thù dân tộc, còn hầu hết những chuyển hoá các triều đại đều là từ
việc phế – lập mà ngày nay gọi là “Diễn biến hoà bình”. Đấy cũng là sự
vận động khách quan của quy luật. Không hiểu từ cơ sở nào mà có người
lại định nghĩa: “’Diễn biến hoà bình’ là một trong những chiến lược
có ý nghĩa và phạm vi toàn cầu của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản
động, được hình thành từ những năm cuối thập kỷ 40 đầu thập kỷ 50, hoàn
chỉnh ở thập kỷ 80 của thế kỷ 20, nhằm chống các nước XHCN, phong trào
độc lập dân tộc và phong trào tiến bộ trên thế giới…” (Báo điện tử của Đảng CSVN).
Quả thật tôi chưa bao giờ dám
nghĩ có một Thánh nhân nào đó lại có thể lật đổ được CNXH ở Đông Âu và
Liên Xô. Bởi lẽ các chế độ này qua một bộ máy tuyên truyền lớn nhất
trong mọi thời đại đã bám rễ sâu từ trung ương đến tận hang cùng ngõ hẻm
các làng xã trên 50 năm ở các nước Đông Âu và 70 năm ở Nga. Hơn một lần
tôi nói trên mạng Internet rằng sự sụp đổ ấy bắt nguồn từ ý chí chủ
quan của nhiều nhà lãnh đạo các nước XHCN. Chính họ đã bất chấp quy luật
tiến hoá của lịch sử phát triển loài người. Sau trên 2 thập kỷ, tôi
chưa thấy Đảng cộng sản ở Liên Xô và Đông Âu trở lại nắm quyền lãnh đạo ở
nước họ – mặc dù chế độ mới ở các nước ấy không cấm Đảng cộng sản hoạt
động. Vì vậy, một Khrutsov, một Gorbachev không thể có sức mạnh siêu
phàm nào để giữ cái chính quyền ra đời từ ý chí luận của các bậc tiền
nhiệm! Nói cách khác, Khrutsov nhận ra tính không tưởng của thể chế mà
họ đang dắt nhân dân Nga đi, nhưng đến Gorbachev nhận ra sự bất đồng
quyết kiệt của nhân dân Nga với chính quyền mà ông là đại diện, và sự
chuyển biến của ông nằm trong cái thế tất yếu của lịch sử.
Những cuộc “Diễn biến hoà bình”
gần đây nhất là những cuộc cách mạng mang tên hoa nhài ở các nước Bắc
Phi. Những cuộc xuống đường của nhân dân đã buộc những nhà lãnh đạo cao
nhất, từng có thâm niên trị vì nước họ, phải từ chức, hoặc phế bỏ. Ai
cưỡng lại sức mạnh của nhân dân, người đó hãy noi gương Gaddafi ở chiếc
cống ngầm!
Nhưng tôi lại thiện cảm với đất
nước Miến Điện. 40 năm trong chế độ quân phiệt, nhưng dân tộc này lại
“Diễn biến hoà bình” theo đúng nghĩa của cụm từ trên để lột xác thành
một nước tự do, dân chủ và nhân quyền đích thực, những nhà chính trị
khác chính kiến đã được tự do ra khỏi trại giam và tiếp tục hoạt động
trở lại. Người tù nhân tiêu biểu là bà Suu Kyi. Báo chí và xuất bản đã
được tháo “vòng kim cô” định hướng, khống chế và kiểm duyệt. Dân được
quyền ra báo và xuất bản, lập hội, biểu tình, … như những gì mà Nguyễn
Ái Quốc đòi thực dân Pháp phải trao cho nhân dân VN từ đầu những năm 20
của thế kỷ trước. Vậy mà hôm nay Quốc hội VN vẫn chưa thông qua được
luật xuất bản trong đó tư nhân được lập nhà xuất bản. Còn Miến Điện thì
…coi đó là chuyện tất yếu để trở thành một nước dân chủ.
Công lao vĩ đại này trước tiên thuộc về tổng thống Thein Sein.
Lịch sử các triều đại chứng minh,
những kẻ nắm quyền lực, thường có xu hướng giữ chặt quyền lực, tăng
thêm uy quyền để dễ trị vì dân chúng, và vì vậy trường hợp vị tổng thống
đương nhiệm Thein Sein là một ngoại lệ. Hành động của tổng thống Thein
Sein chắc chắn được nhân dân thế giới tôn vinh như là bậc vĩ nhân của
thời hiện đại, dám chia xẻ quyền lực, đúng hơn là trao lại quyền lực về
tay nhân dân, làm một tấm gương cho không ít nhà lãnh đạo một số nước
đang còn mê muội bởi quyền lực, coi nhân dân như những tù nhân của chính
mình dưới lớp vỏ hào nhoáng: Chính quyền của dân, do dân, vì dân!
Việt Nam thời hiện đại vẫn còn đó
những tấm gương trung dũng kiên cường, học rộng tài cao chí lớn …mưu
lược một thời. Ở đây tôi xin nhắc đến Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh,
Nguyễn Ái Quốc. Cả ba nhà chí sĩ này theo 3 con đường cứu nước khác
nhau. Phan Bội Châu thì nhờ đồng lân, đồng chủng là Nhật Bản giúp ta
chống Tây. Phan Chu Trinh theo con đường “thức tỉnh nhân tâm, hợp
quần, hợp xã, khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, ai nấy thấy rõ
ngọn nguồn, đồng tâm hiệp lực đạp đổ cường quyền …” (Thư của Phan
Chu Trinh gởi Nguyễn Ái Quốc ở Marseille 18-12-1922). Còn Nguyễn Ái Quốc
thì theo Quốc tế 3. Ở đây tôi không đề cập đến nội dung của hai con
đường cứu nước(giữa PCT và NAQ) mà tôi chỉ nói tới phương pháp cách mạng
không đồng nhất giữa hai người, cũng trong thư PCT gởi NAQ: “…từ
thời xưa tới nay, từ Á sang Âu chưa có một người nào làm cái việc như
anh (NAQ), anh lấy cái lẽ ở nước mình lưới giăng tứ bề, mà về nước ắt là
sa cơ, gia dĩ dân tình sĩ khí cơ hồ tan tác, bởi cái chính sách cường
quyền nên sự hấp thụ lí thuyết kém cỏi, bởi thế mà anh cứ khư khư cái
phương pháp “ngoạ ngoại chiêu hiền đãi thời đột nội”.
Nhưng cuối cùng Nguyễn Ái Quốc đã
thành công. Cuộc Cách mạng tháng Tám dựng lên nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà, cùng với Tuyên ngôn độc lập, Bản hiến pháp năm 1946 … là sự
tích luỹ bao kinh nghiệm, bài học, thành quả của nhân loại tiến bộ cho
tới thời ấy mà Nguyễn Ái Quốc có được.
Con đường cứu nước của Nguyễn Ái
Quốc là tấn công chính quốc ngay trên chính quốc. Và khi có điều kiện
thì về nước. Cuộc “Diễn biến hoà bình” cách mạng tháng Tám năm 1945 đã
được Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị và mai phục từ những năm 20 của thế kỷ 20.
Rất tiếc sau đó cuộc “Diễn biến hoà bình” lại trở thành “Bạo lực cách
mạng” do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, mà hôm nay chưa dễ có
sự đồng thuận của nhiều nhà lịch sử, nhà khoa học, học giả trong và
ngoài nước. Nhưng nhìn vào thực tế thì ai cũng thấy Quốc tế 3 thất bại và Quốc tế 2
thành công ít nhất là ở các nước Tây Âu. Lãnh tụ của Quốc tế 2 là
Enghen. Những năm cuối đời, Enghen nhìn thấy sai lầm của chủ nghĩa
L.A. Blanqui (lãnh đạo thuộc phái bạo lực trong Quốc tế 1): Dựa vào bạo lực cách mạng là có thể tạo ra một xã hội không có áp bức và bóc lột! “…Tuy
nhiên, đừng tưởng đó là toàn bộ nền chuyên chính của toàn bộ giai cấp
cách mạng tức là giai cấp vô sản, mà là chuyên chính của số ít người …số
người này lại phục tùng chuyên chính của một hoặc vài người” (Toàn tập Marx-Enghen, cuốn 18, tr 580-581 bản Hoa văn). Thời hiện đại TBT Ziuganov cho rằng: “Nguyên nhân cơ bản khiến Liên Xô và Đảng cộng sản sụp đổ là sự lũng đoạn đối với tài sản, quyền lực và chân lý”. Ở đây không có kẻ thù địch và “Diễn biến hoà bình” nào cả!
Cái giá của “Bạo lực cách mạng” và nền văn hiến Đai Việt thời hiện đại
Tôi nghĩ giá như – lại giá như –
chúng ta đứng trên nền tảng của chủ nghĩa dân tộc như hầu hết các nước ở
Đông Nam Á thì biết đâu chúng ta tránh được cuộc “Bạo lực cách mạng”
kéo dài suốt 30 năm cùng với những cuộc cách mạng gọi là “dân chủ” gây
ra cho dân tộc chúng ta bao nhiêu cảnh nồi da xáo thịt, hàng bao nhiêu
triệu gia đình tan nát, mẹ mất con, vợ mất chồng, anh mất em, những cuộc
ly tán mất nhà mất cửa mất cả quê hương. Một thứ văn hoá phi văn hoá
làm đảo lộn văn hoá trong sáng của người Việt được giữ gìn trong trường
kỳ lịch sử, qua các cuộc giảm tô, cải cách ruộng đất, cải tao tư sản.
Con người Việt thời cách mạng nhìn đâu cũng thấy kẻ thù … Con tố cha, vợ
tố chồng, anh tố em. Cho đến tận hôm nay kẻ thù lại mai danh ẩn tích
trong “Diễn biến hoà bình”, còn chính kẻ thù đã và đang cướp biển đảo
của ta thì gọi là đồng chí vàng, bạc! Thế hệ chúng tôi lớn lên trong
cách mạng, số còn sống hôm nay vẫn không hiểu đây là thứ văn hoá gì? Cho
đến hôm nay tôi vẫn nhớ như in lời dạy của vua Trần Nhân tông lúc tôi
còn là sinh viên: “Các người chớ quên ,chính nước lớn mới làm những
điều bậy bạ, trái đạo. Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm
một nẻo. Cho nên cái họạ lâu đời của ta là họạ Trung Hoa…”(Di chúc của Trần Nhân tông).
Cốt lõi của một dân tộc là văn
hoá chứ không phải là đất rộng hay hẹp, nhiều tài nguyên hay ít tài
nguyên, không phải người đông hay thưa. Tất cả chỉ là chất xúc tác để
tạo ra bản sắc văn hoá của một dân tộc. Bản sắc văn hoá ấy nông hay sâu,
dày hay mỏng, rộng hay hẹp, đa tầng hay ít tầng… sẽ quyết định tâm thức
của dân tộc ấy. Tâm thức văn hoá quyết định sức mạnh của một dân tộc,
quyết định cả sự tồn vong của dân tộc.
Chúng ta tự hào nghìn năm văn
hiến là dựa trên cái cốt lõi của một nền văn hoá được vun xới, bồi đắp
qua hàng nghìn năm dựng nước và mở cõi của tiền nhân, tạo thành nhân
cách của một dân tộc. Nhân cách ấy là bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy là khác giống nhưng chung một dàn, là lá lành đùm lá rách, là anh em như thể tay chân, là người trong một nước phải thương nhau cùng – trong ca dao, tục ngữ. Là lấy nhân nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo, là việc nhân nghĩa cốt ở yên dân – Nguyễn Trãi. Là quyền biến, lúc bình thì khoan sức cho dân để làm kế sâu rễ bền gốc – Trần Hưng Đạo.
Giá trị của văn hoá là giá trị tiềm ẩn, mang đậm dấu ấn riêng của một dân tộc. Theo UNESCO thì “Văn
hoá là hệ thống tổng thể những giá trị biểu trưng quy định cách ứng xử,
thái độ giao tiếp của một cộng đồng và làm cho cộng đồng đó có đặc thù
riêng”.
Tóm lại “Diễn biến hoà bình” xuất
hiện tự thời cổ đại thường được gọi là phế – lập, khi xã hội loài người
có vương quyền (có kẻ cai trị và người bị trị). Nó là sự vận động khách
quan của các mối quan hệ giữa người và người, giữa kẻ thống trị và
người bị trị, hoàn toàn không phải là khái niệm của “kẻ thù gần đây”. Sự
vận động ấy hướng tới một định chế hợp xu thế thời đại, hợp lòng dân
hơn và vì vậy nó là sản phẩm của sự tiến bộ. Nó đồng thời cũng cảnh cáo
mọi sự bảo thủ, hám quyền và chuyên quyền! Bước tiếp theo của chuyên
quyền là độc quyền. Từ độc quyền đến độc đoán, độc tài, quân phiệt, … là
một bước ngắn. Một học giả phương Tây đã khái quát những xã hội chuyên
chế rằng: “Một đất nước kỳ lạ khi nó nhìn mọi sự thay đổi như một sự
tấn công, mỗi biến chuyển như là một sự giật lùi và mọi sự thích nghi
như những cuộc đầu hàng” (theo báo Gilles Delafon trích trong cuốn Hello Earth).
Không một nhân dân nào chấp nhận sự chuyên chế và độc tài.
Chuyên chế và độc tài là kẻ thù của nền dân chủ. Phan Bội Châu đã từng
nói: “Không có dân thì đất đai không thể còn ,chủ quyền không thể
lập ;nhân dân còn thì nước còn. Nhân dân mất thì nước mất. Muốn xem nhân
dân còn mất thế nào thì nhìn xem cái quyền của người dân còn mất thế
nào?”
Bình tâm nhìn lại, hôm nay người
dân còn được quyền gì? Nhân dân có trăm tai nghìn mắt, không nhà cầm
quyền nào đánh tráo được giữa sự bạo ngược và lòng nhân ái. Hồ Chí Minh
đã từng lo sợ về một nhà nước mà ông là người sáng lập, đất nước ấy, dân
chủ là kẻ thù của nền chuyên chính vô sản: “Các chú diễn giải hai
tiếng dân chủ sao mà rắc rối, dài dòng thế? Dân chủ thực ra có nghĩa là:
Để cho dân được mở miệng. Dân chủ là đừng bịt miệng dân.” Đúng,
trong trường hợp này Hồ Chí Minh là một thiên tài. Ông tiên đoán chính
xác sự bất bình thường của “đứa con” mà mình “mang nặng đẻ đau”.
Và vì vậy hôm nay nếu có “Diễn
biến hoà bình” thì đấy chính là sự chuyển hoá một cách ôn hoà trạng thái
vô tổ chức, trên nói dưới không nghe, tình trạng cát cứ có dấu hiệu
phục hồi, tham nhũng, mua quan bán chức,… từ hiện tượng đang trở thành
bản chất của chế độ, lòng tin của dân với đảng cầm quyền suy giảm đến
mức báo động, thì sự chuyển biến ấy chính là đại phúc cho nhân dân, chứ
có gì mà phải … sợ? Và dẫu anh có sợ cũng không được. Hãy gia cố con đê
trước khi nước tràn! Khi nước đã tràn thì có Thánh cũng chịu!
Ổn định và trì trệ
Cái dễ của nhà cầm quyền là vui
vẻ, là hài lòng trước quyền lực của mình ngày hôm nay, và mong xã hội ổn
định mãi như ngày hôm nay để tiếp tục giữ quyền lực.
Cái khó của nhà cầm quyền là dám
nghe những phản biện và tự vượt lên chính mình ngày hôm nay để theo kịp
sự chuyển hoá khách quan của xã hội – sự chuyển hoá cần thiết cho sự tồn
tại và phát triển đất nước trong đó có mình và dòng họ mình. Điều ấy lý
giải vì sao ngay cả thời phong kiến nhà vua vẫn phải chấp nhận “Giám
sát ngự sử” bên cạnh mình. Thực tế chứng minh vương triều nào can đảm
lắng nghe lời can gián, những lời “nghịch nhĩ” điều chỉnh phương pháp
trị dân của mình thì xã hội lành mạnh hơn. Đấy mới là sự ổn định thực
thông qua “Diễn biến hoà bình” chính tư duy của mình. Không ít nhà lãnh
đạo chủ chốt của cách mạng Việt Nam chưa nhận thức đúng học thuyết Marx
về ổn định đồng nghĩa với trì trệ. “Thực chất cách mạng của phép
biện chứng duy vật không dung hoà với bất cứ sự trì trệ và bất động nào,
làm cho phép duy vật trở thành công cụ cải tạo thực tiễn xã hội, giúp
tính toán một cách khách quan tới những yêu cầu lịch sử của sự phát trển
xã hội, tình trạng những hình thức cũ không phù hợp với nội dung mới,
sự cần thiết phải chuyển đến những hình thức cao thúc đẩy sự tiến bộ của
loài người…” (Từ điển triết học – nxb VH TT 2002, tr 84).
Hãy nhìn sự ổn định của xã hội VN
và các nước theo chúng ta là không ổn định như Thái Lan, Nhật Bản,… thì
ai cũng dễ đồng tình xã hội của họ vẫn phát triển vượt xa chúng ta
nhiều, nhiều lắm.
Chúng ta đánh đổ phong kiến,
chúng ta đánh đổ thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đâu phải để xây dựng một xã
hội ổn định theo kiểu không có phản biện hay phản biện giả. ( Phản biện
giả là phản biện có sự lãnh đạo của đảng cầm quyền.) Có ai đó chê Hoàng
đế Quang Trung là độc tài quân phiệt, nhưng tôi chưa thấy tài liệu nào
nói Ông bắt giam, bỏ tù một ai mắc tội vu khoát. (Trong Chiếu cầu lời
nói thẳng Quang Trung mong nhận được những lời nói thẳng, nói thực,
không bắt tội vu khoát một ai).
Vậy mà hôm nay chính tôi lại nhìn
thấy bao nhiêu người yêu nước bị bắt, bị giam cầm chỉ vì yêu nước mà
không chịu yêu CNXH, chỉ vì có chính kiến khác với chính thống. Trong
thực tế Marx chưa bao giờ đồng nhất yêu nước và yêu CNXH! Và với CNCS,
Marx cũng chỉ dám dự đoán thôi.
Những nhà lãnh đạo hôm nay nên
dũng cảm nhìn thẳng vào thực tế để thấy phong kiến và đế quốc thối nát
thực, nhưng chúng nó vẫn cho những người yêu nước, những người cộng sản
ra báo tư nhân, lập nhà xuất bản tư nhân, dân được lập hội và biểu tình
phản đối chúng nó. Năm 1925 Phan Chu Trinh từ Pháp về Sài Gòn, và sau đó
không lâu ông tổ chức diễn thuyết lên án chính quyền. Năm 1925 cụ Phan
có ít nhất 2 lần diễn thuyết ở Sài Gòn. Và ngày 26 tháng 3 năm 1926, khi
ông qua đời, gần một nửa dân Sài Gòn đi dự đám tang nhà yêu nước Phan
Chu Trinh mà không ai bị bắt bớ, tù đày. 96 năm sau ngày cụ Phan ra đi
vĩnh viễn, bác sĩ Huỳnh Tấn Mẫm giữa thềm nhà hát Lớn Sài Gòn lên án
Trung Quốc xâm chiếm biển đảo thuộc chủ quyền VN thì bị công an xua đuổi
cùng nhiều trí thức tên tuổi như nguyên Viện trưởng Viện xã hội học
Tương Lai, kiến trúc sư Trọng Huấn. Hai thể chế đối lập ấy, người dân
thường cũng biết đối chiếu so sánh dễ dàng huống chi là những trí thức
tầm cỡ như GS Hoàng Tuỵ, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, GS Phan Đình
Diệu, GS Ngô Bảo Châu, nhà văn Nguyên Ngọc, GS Nguyễn Huệ Chi, GS Tương
Lai, BS Huỳnh Tấn Mẫm, … để từ đấy lãnh đạo nhà nước hôm nay nên coi
“Diễn biến hoà bình” hoàn toàn không phải là kẻ thù địch nào cả mà sự
trì trệ trong chính những nhà lãnh đạo của Đảng CS, là phương sách
chuyển hoá tư duy chính mình và chuyển đổi xã hội phù hợp quy luật khách
quan thì tự khắc lòng dân lại thuận.
Một thời chúng ta đã từng quy kết
và dùng nhục hình dã man với bao nhiêu người có công với cách mạng,
những dân oan vô tội, tôi mong những người nắm quyền lực hôm nay đừng
đẩy những người yêu nước vào cái gọi là bọn thù địch “Diễn biến hoà
bình” mà rơi vào những sai lầm đã khắc vào lịch sử trong quá khứ chưa xa
những tội lỗi trời không dung đất không tha!( cụm từ của Nguyễn Trãi).
Thay lời kết
Tôi muốn gởi những dòng cuối này
đến anh Nguyễn Phú Trọng, với tư cách là đồng môn – tôi học trước anh
hai khoá. Tuy là học một trường, nhưng tôi và anh có hai cách tiếp cận
khác về CNXH. Tôi nghiêng về CNXH dân chủ của Lassall, còn anh theo CNXH
bạo lực của Lénin. Nhưng tôi không nói chuyện đúng sai ở đây. Ở đây tôi
chỉ mong với tư cách một người lãnh đạo Đảng, anh cố gắng giữ cho xã
hội dưới thời anh trên dưới đồng lòng, coi dân làm trọng, xoá cách biệt
giữa dân với Đảng, hết sức tránh dùng cường quyền và bạo lực đối với
những người yêu nước khác chính kiến. Muốn vậy chính anh và những đồng
chí của anh phải tự mình chuyển hoá tư duy hoặc là chấp nhận “Diễn biến
hoà bình” (Không phải Diễn biến hoà bình theo định nghĩa của báo Điện tử
ĐCS, mà theo truyền thống, hợp xu thế). Đấy là hai con đường ôn hoà
nhất để xây dựng một xã hội lành mạnh và hợp quy luật khách quan .
Tôi tin anh làm được bởi trước
anh đã có Trường Chinh một thời thiên tả, cứng nhắc, rồi đã tự phủ định
mình hôm qua. Thời ấy kinh tế thị trường là cụm từ cấm kỵ, đồng nghĩa
với xét lại. Ai dính vào cái “mũ” này thì coi như cuộc đời chấm dứt. Nói
như thế để thấy vai trò vô cùng quan trọng của cụ Trường Chinh. Tôi
mong anh học tập cố TBT Trường Chinh và mới đây là Thein Sein – người
vừa được báo Straits Times Singapore tôn vinh nhân vật của châu Á năm
2012.
Bạn bè chúng ta thời đại học nói
với tôi rằng kể từ khi anh lên chức TBT đã có hơn 50 người yêu nước bị
làm khó dễ, bị bắt, bị giam cầm vì nhiều lý do vu vơ. Xã hội hôm nay
dưới quyền anh làm tôi nhớ lại thời Nhân văn Giai phẩm ở trong nước thời
hiện đại, và thời cổ đại Trung Hoa tôi lại nhớ thời Tống Thần tông,
Vương An Thạch làm tể tướng. Vương là một người học rộng tài cao, một
nhà thơ uyên thâm. Vậy mà dưới thời Vương An Thạch kẻ sĩ bị bắt, bị đi
đày nhiều nhất. Một thi nhân như Tô Đông Pha chỉ vì không đồng chính
kiến với Vương An Thạch mà gần suốt cuộc đời phải chịu đi đày, có lúc
đói quá phải “hớp nắng” để đỡ đói trên đảo Hải Nam. Trên cái nền này tôi
có viết cuốn “Thăng trầm Tô Đông Pha” (Nhà XB Văn nghệ TP HCM năm 2000)
với hy vọng những nhà lãnh đạo VN hôm nay lấy đó làm bài học. Nhưng
dường như người ta nghĩ nhiều về quyền lực và quyền lợi mà nhẹ về văn
hoá – văn hoá đời Lê lấy chí nhân thay cường bạo, văn hoá đời Trần lấy
khoan dung làm trọng.
Tôi nay đã ngoài 70, không hề biết sợ chết, chỉ sợ trước khi chết mà vẫn phải nhìn đất nước như thời Vương An Thạch!
Chắc anh thừa biết lịch sử không quên công lao một ai và lịch sử cũng không bỏ sót tội lỗi một ai.
Nhà văn Hoàng Lại Giang
No comments:
Post a Comment
Cám ơn bạn đã đọc bài và nhận xét!