Powered By Blogger





Tuesday, 30 September 2014

Biểu tượng ruy băng vàng.







Dân Luận: Chúng ta hãy cùng tìm hiểu ý nghĩa của biểu tượng ruy băng vàng trên nên đen mà giới trẻ Hong Kong đang sử dụng.

Biểu tượng sợi ruy băng vàng bắt đầu xuất hiện từ 400 năm trước trong 1 bài thơ tiếng Anh khá phổ biến , nói về 1 phụ nữ có chồng đi xa , bà sống trong hy vọng chờ đợi tin mừng ngày chồng về. Sợi ruy băng nói lên hy vọng của con người và về sự trông ngóng 1 tin vui.
Người Anh di cư sang Mỹ đã đem theo biểu tượng dây ruy băng vàng này và khi nội chiến bùng nổ thì những người vợ lính ở nhà đã cột dây ruy băng vàng quanh các gốc cây trong sân nhà để làm biểu tượng mong nhớ chồng và chờ chồng đem tin chiến thắng về . Từ đó mới có bài hát nổi tiếng " Tie a yellow ribbon around a tree .. " . Những người lính Mỹ chiến đấu ở xa cũng dùng khăn quàng cổ màu vàng để nhớ đến vợ con ở quê nhà.


Ruy băng vàng được cột quanh các con đường Hong Kong
Một vài quốc gia khác thì người vợ lính có chồng bị bắt làm tù binh chiến tranh cũng dùng dây ruy băng vàng để nói lên lòng nhớ chồng và hy vọng chồng mình sớm trở về.
Dần dần, ruy băng vàng trở thành biểu tượng chung của cả thế giới cho HY VỌNG và cho CHIẾN THẮNG .

Người Hong Kong treo ruy băng vàng trước cổng tòa nhà chính phủ
Khi sinh viên Hong Kong xuống đường biểu tình chống sự áp đặt của nhà cầm quyền Bắc Kinh họ đã dùng dây ruy băng vàng. Với ý nghĩa đó chính là HY VỌNG và NIỀM TIN vào CHIẾN THẮNG của phong trào đòi dân chủ của họ.
Trong khi đó thì ruy băng màu xanh dương lại là biểu tượng thân Bắc Kinh , vì nó là màu áo đồng phục của cảnh sát Hong Kong đang đàn áp sinh viên học sinh. Những người ủng hộ cảnh sát đã dùng nơ màu xanh dương làm avatar của mình .
Biểu tượng của mỗi phong trào có 1 màu sắc riêng và có ý nghĩa riêng của nó. Đó là thông điệp mà phong trào muốn nói với thế giới.
Ý nghĩa của màu đen trong phong trào sinh viên HK đòi dân chủ
Sinh viên HK đã từ nhiều năm nay mỗi năm vào ngày 04-06 đều mặc áo đen xuống đường biểu tình và thắp nến tưởng niệm nạn nhân của Thiên An Môn, họ luôn lên tiếng ủng hộ phong trào đấu tranh đòi dân chủ của sinh viên Đại Lục .
Họ coi đó là 1 ngày tang tóc, áo đen là để tang, là khóc cho tự do dân chủ bị chà đạp .
Sau đó các luật sư HK đã có nhiều cuộc biểu tình mặc toàn áo vest đen, đây là những cuộc biểu tình bất tuân dân sự đầu tiên, khi họ phản đối các điều luật vô lý mà chính quyền Bắc Kinh muốn áp đặt lên Hong Kong.
Vì vậy khi phong trào Occupy Central và Scholarism bắt đầu , họ dùng nền đen làm biểu tượng , Họ khóc cho Hong Kong bị Bắc Kinh đàn áp cướp đi tự do dân chủ , họ muốn nói Bắc Kinh và chủ nghĩa cộng sản chỉ đem lại chết chóc và đau thương .
Tuy nhiên, họ cài lên màu đen đó sợi ruy băng màu vàng là biểu tượng của hy vọng và chiến thắng, cũng là hình ảnh ánh sáng bùng lóe lên từ bóng đêm ..
Lúc họ đồng loạt bật đèn điện thoại cầm tay khi tụ họp vào đêm 29 cũng là thông điệp " ánh sáng bùng lên xóa tan màn đêm đen tối ".
------------------------------------




Thảm hoạ thời trang










Mặc thế này thà không mặc như em dưới còn hơn.....


Chúng ta chỉ là công dân hạng hai trên thế giới này...






Chúng ta đừng mơ đến có một nền kinh tế ngang tầm với chính chúng ta, đến một cuộc sống ngang tầm, gần ngang tầm với với các nước chung quanh, đến một nền hạnh phúc như người dân các nước đó..

Vì trong cuộc đua đến hạnh phúc của người dân, đến sự thịnh vượng của Quốc Gia thì chúng ta đã tự trói tay chân của mình, tự hại mình...nên không bao giờ bắt kịp, kể cả các quốc gia đứng sau chúng ta, không bao giờ người dân no ấm hạnh phúc bằng những quốc gia chung quanh...Không bao giờ!

Vì chúng ta không có những quyền căn bản của con người như họ để tự do phát triển xây dựng cuộc sống, xây dựng đất nước....Chúng ta đã mất đi cái quyền Tự Do khiến cho chúng ta không thể thực hiện trọn vẹn quyền Sống và quyền Mưu Cầu Hạnh Phúc, ba quyền cơ bản mà Hiến Pháp HK 1776 đã minh định để thế giới ngày nay noi theo. Và thật đau lòng khi đó cũng là ba quyền mà Tuyên Ngôn Độc Lập của chúng ta đã long trọng ghi rõ nhưng không thực hành...

Chúng ta không được giải thoát khỏi những giáo điều lỗi thời, những áp đặt vô lý để toàn tâm toàn trí xây dựng hạnh phúc trên chính quê hương mình...như những người dân các nước tiên tiến...

Chúng ta không có sự đối lập, phản biện như các QG dân chủ đó mặc dù chúng ta biết sự phản biện, đối lập là cơ sở cho sự thăng tiến xã hội...Thậm chí những quyền xuống đường ôn hòa của người dân cũng không có...

Người dân không được bầu những người họ thích vào vị trí có ích cho họ, mà phải chấp nhận những người họ không biết, thậm chí căm ghét vào những vị trí sinh sát đến tất cả quyền của họ. Những người sẽ dẫn dắt họ không phải bằng tài năng, đức độ mà bằng bạo lực hoặc đe doạ bạo lực, bạo quyền...

Thậm chí người lính quân đội, công an cũng kg thể tự hào khi đc đem ra để chống lại, hay đe doạ chống lại người dân thay vì phụng sự người dân như ở các nước đó như quân đội chỉ để bảo vệ tổ quốc, công an chỉ để giữ trật tự xã hội...

Khi tiếng nói người dân không phải là tiếng nói của người dân, khi ý nguyện người dân không phải là ý nguyện người dân. Và thậm chí chính quyền cũng không phải của chính quyền của người dân khi người dân không bầu, các cơ quan dân cử không phải do dân cử, chính quyền không phải do dân bầu nên không thể là do dân, vì dân và của dân...

Người dân chúng ta không có đc quyền dựng xây một đất nước thịnh trị, ngẩng cao đầu như lòng dân mong muốn...Người dân chúng ta không được cống hiến tinh hoa sức lực của mình cho đất nước như người dân các nước văn minh trên thế giới..

Những người muốn phụng sự cho quốc gia không được phụng sự cho QG khi các cơ quan công quyền, cơ quan dân cử đã ngồi chật những người không phải do dân cử và cũng không phải ở đó để phụng sự QG...như ở các QG khác..

Chúng ta không học hỏi gì ở quá khứ. Chúng ta không thừa nhận chúng ta đã sai lầm đi trên con đường sai lầm. Nên chúng ta đã trở thành một kẻ ngu ngốc đi trên con đường ngu ngốc..

Và cuối cùng sự khác nhau là trong khi chúng ta chỉ nói những lời tốt đẹp, thì các QG ấy chỉ làm những điều tốt đẹp ...

Nên muôn đời chúng ta không thể đuổi kịp các nước xung quanh...Không bao giờ..

Và trên thế giới tươi đẹp này, chúng ta sẽ chỉ mãi mãi là công dân hạng hai để xây dựng một quốc gia hạng hai mãi mãi...

MTA
Theo FB Mai Tu An




Tại sao khó có thể tự hào là người Việt Nam?











Đề tài này có thể rất tế nhị. Nếu là người Việt mà nói "tôi không tự hào là người Việt" thì chắc chắn sẽ bị "ném đá" như Hồi giáo ném đá những người ngoại tình. Một cuốn sách có tựa đề là "Tôi tự hào là người Việt Nam" mới xuất bản và đã bán hết 10000 cuốn đủ để nói đề tài này làm ấm lòng rất nhiều người như thế nào. 

Tôi chưa đọc quyển sách đó, nhưng đọc phần nhận xét của báo chí thì thấy hình như hàm lượng tri thức không cao (1). Đọc qua bài tường thuật một hội thảo cùng chủ đề cũng chỉ thấy những phát biểu chung chung. Vậy chúng ta có lí do gì để tự hào là người Việt Nam? Tôi nghĩ thành thật mà nói, chúng ta không có nhiều lí do. Khi tôi hỏi về câu này, nhiều người có học và suy nghĩ nói thẳng rằng họ không tự hào là người Việt Nam. Ở đây, tôi thử đóng vai một "devil advocate" về đề tài này.

Điều gì làm cho người ta tự hào là thành viên của một cộng đồng dân tộc? Nói đến tự hào dân tộc, có lẽ người Nhật có lòng tự hào cao nhất nhì thế giới. Năm 2008, kết quả điều tra xã hội ở Nhật cho thấy 93% người Nhật tự hào là người Nhật (2), và tỉ lệ này cao hơn Mĩ (85%). Con số này ở Nhật năm 1986 là 91%. Khi được hỏi điều gì làm cho họ tự hào là người Nhật thì 72% trả lời là yếu tố lịch sử, truyền thống và văn hoá, 43% trả lời là phong cảnh thiên nhiên. Ngoài ra, 28% chọn sự ổn định xã hội và an toàn, và 28% khác chọn đặc tính dân tộc làm cho họ tự hào. Người Nhật quá tự hào đến nỗi họ không nhận trợ giúp trong cơn bão Fukushima. 
 
Riêng tôi muốn bổ sung những yếu tố trên và nghĩ đến 6 yếu tố sau đây: truyền thống và văn hoá, kinh tế, giáo dục & khoa học, xã hội ổn định, phong cảnh thiên nhiên, và trách nhiệm với cộng đồng thế giới. Phải nói ngay rằng xét đến 6 yếu tố này thì chúng ta rất khó mà tự hào là người Việt. 
 
Truyền thống và văn hoá nghèo nàn & thiếu bản sắc tích cực
 
Thật khó chỉ ra một nét văn hoá đặc thù nào mang tính Việt Nam. Hỏi một người Việt Nam bình thường chỉ ra một nét văn hoá định hình Việt Nam, chắc chắn người đó sẽ lúng túng. Điều này dễ hiểu vì chúng ta khởi đầu từ một nền văn minh nông nghiệp (lúa nước) nhưng lại chịu ảnh hưởng bởi văn hoá Tàu cả ngàn năm. Hệ quả của sự ảnh hưởng đó để lại cho VN những đặc điểm mà chúng ta đều có thể nhận ra như tính vọng ngoại, chuộng bạo lực, tính vị kỉ, tính khoa trương bề ngoài và thiếu thực chất bên trong, v.v. Một nhà văn hoá xuất sắc là Đào Duy Anh từng nhận xét về người Việt Nam (trong "Việt Nam văn hoá sử cương") như sau: 
 
"Về trí tuệ thì người Việt Nam đại khái thông minh, nhưng xưa nay ít thấy có người trí tuệ lỗi lạc phi thường; sức ký ức thì phát đạt lắm, mà giàu trí nghệ thuật hơn trí khoa học, thích văn chương phù hoa hơn là thực học; Não tưởng tượng thường bị não thực tiễn hòa hoãn bớt cho nên dân tộc Việt Nam ít người mộng tưởng, mà phán đoán thường có vẻ thiết thực lắm; Sức làm việc khó nhọc, nhất là người ở miền Bắc, thì ít dân tộc bì kịp; Cảm giác hơi chậm chạp, song giỏi chịu đau đớn cực khổ và hay nhẫn nhục; Tính khí cũng hơi nông nổi, không bền chí, hay thất vọng; Hay khoe khoang trang hoàng bề ngoài, ưa thích hư danh; Thích chơi bời cờ bạc; Não sáng tác thì ít, nhưng mà bắt chước, thích ứng và dung hòa thì rất tài; Người Việt Nam lại rất trọng lễ giáo, song cũng có não tinh vặt, hay bài bác chế nhạo".
 
Nói tóm lại những đặc tính về người Việt trên đây chẳng làm cho chúng ta tự hào. Những nét văn hoá đó càng lộ ra khi người Việt bắt đầu hội nhập quốc tế hay định cư ở nước ngoài. Chúng ta đã từng đọc và nghe những câu chuyện người Việt ăn cắp trong các siêu thị ở Nhật, Singapore, Úc, v.v. Chúng ta cũng từng nghe biết người Việt hám ăn và phung phí ra sao. Nhiều người biện minh rằng đó chỉ là số ít và chỉ tập trung vào một nhóm người ít học. Nhưng biện minh đó không thuyết phục, khi chúng ta biết rằng những người Việt ăn cắp ở nước ngoài là những người có học, là quan chức đang làm việc trong cơ quan công quyền, thậm chí đang hành nghề giảng dạy về đạo đức sống! Chúng ta cũng biết rằng sự hám ăn của người Việt nổi tiếng đến nỗi nhà hàng Thái Lan và Nhật phải để những tấm biển viết bằng tiếng Việt cảnh cáo. Phải nhìn nhận những thực tế đó, chứ không nên trốn tránh.
 
Ngay cả người Việt định cư ở nước ngoài cả vài chục năm vẫn giữ những bản sắc chẳng có gì đáng tự hào. Ở Úc, người Việt là một sắc dân có nhiều thanh thiếu niên ngồi tù. Cộng đồng người Việt ở Mĩ được xem là khá thành công, nhưng thực tế vẫn cho thấy đó là một cộng đồng nghèo và họ thường sống co cụm với nhau và thiếu khả năng hội nhập như cộng đồng người Nhật, Phi Luật Tân hay Hàn Quốc. Vì sống co cụm với nhau nên chúng ta dễ thấy bản sắc văn hoá của người Việt được duy trì như thế nào. Hãy đến những khu thương mại của người Việt ở Sydney, chúng ta dễ dàng thấy đó là những khu tấp nập buôn bán, nhưng nhìn kĩ thì sẽ thấy sự dơ bẩn, ồn ào, mất trật tự, và chen chúc chật hẹp. Nhìn kĩ hơn, chúng ta sẽ thấy hàng quán người Việt chỉ là ăn uống chứ không có những sinh hoạt mang tính văn hoá nào cả. 
 
Về chính trị, VN cũng chẳng có gì đáng tự hào. Nền tảng chính trị VN trước đây (ở miền Bắc) và sau này (cả nước) lệ thuộc vào Tàu và Liên Xô. VN vẫn theo một chủ nghĩa lỗi thời và đã hết sức sống, một chủ nghĩa mà nơi khai sinh ra nó đã khai tử nó hơn 20 năm trước đây. Người Việt chẳng phát kiến được một chủ thuyết chính trị nào, mà chỉ rập khuôn theo chủ nghĩa Mao – Stalin. Không thể nào tự hào khi mà chính quyền ra rả mỗi ngày bảo người dân phải làm gì và giảng giải rằng yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội! 
 
Người Úc tự hào vì họ có nền chính trị dân chủ, mà trong đó người dân có tự do thực hiện hoài bảo của mình, và chính phủ không lên lớp dạy bảo người dân phải làm gì hay làm ra sao. Người Mĩ tự hào vì họ có một nền dân chủ ổn định và hào hiệp giúp đỡ nhiều nước khác trên thế giới. Người Việt chúng ta khó mà tự hào như người Úc hay người Mĩ về tiêu chí chính trị. 
 
Nhiều người Việt Nam rất tự hào rằng VN đã đánh thắng các đế quốc sừng sỏ nhất như Tàu, Pháp, và Mĩ. Chiến tranh là giải pháp của người thích cơ bắp chứ đâu phải là biện pháp của người thông minh. Vả lại, chiến tranh nhân danh chủ nghĩa và đánh thuê hay đánh dùm cho kẻ khác thì càng chẳng có gì để tự hào. Nhưng để thắng Pháp, thắng Mĩ, thì hàng triệu người Việt phải hi sinh, và đất nước nghèo mạt cho đến ngày hôm nay. Đằng sau những cái vinh quang chiến thắng là biết bao sai lầm và tội các đã bị che dấu. Người Thái Lan tự hào vì họ tránh được chiến tranh và giữ được hoà bình. Người Nhật chấp nhận đầu hàng trong cuộc chiến quân sự nhưng lại thắng trên trận chiến kinh tế, và họ tự hào điều đó. Tôi nghĩ nếu VN tránh được chiến tranh mới là điều đáng tự hào, chứ chiến tranh –- bất kể thắng hay thua –- thì chẳng có gì đáng tự hào. Làm người hùng vài phút để sau này mang tật suốt đời và rách nát thì rất khó xem đó là niềm tự hào. 
 
Thất bại về kinh tế
 
Cho đến nay, dù chiến tranh đã kết thúc gần 40 năm, VN vẫn là một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới. VN không có bất cứ một tập đoàn kinh tế nào làm ăn thành công; tất cả những "VINA" hoặc là đã thất bại thê thảm, hoặc đang trong tình trạng thoi thóp. Nói đến Hàn Quốc người ta nghĩ đến Samsung, Kia, Hyundai; nói đến Nhật người ta nghĩ đến Toyota, Honda, Mazda, Sony, Panasonic, Toshiba và vô số các thương hiệu khác; còn nói đến VN chúng ta không có bất cứ một thương hiệu nào trên thế giới. Đến một cây kim, vít ốc, VN vẫn chưa sản xuất đạt chất lượng. 
 
Trước 1975 ở miền Bắc cuộc Cải cách ruộng đất đã để lại nhiều "di sản" tiêu cực cho nền kinh tế nông nghiệp. Trước 1975, có thể nói kinh tế miền Bắc không đáng kể, trong khi kinh tế miền Nam phát triển khá, tuy chưa bằng Hàn Quốc nhưng cũng tương đương hay xấp xỉ các nước trong khu vực Đông Nam Á. Nhưng sau 1975, với chính sách cải tạo công thương và hợp tác xã nông nghiệp đã dẫn đến tình trạng suy sụp kinh tế, sản lượng nông nghiệp suy giảm thê thảm, và đời sống người dân vô cùng khốn khó một thời gian dài. Gần đây, một loạt tạp đoàn kinh tế bị sụp đỗ đã gây thiệt hại đáng kể cho kinh tế nước nhà. Ngay cả hiện nay, mỗi năm có gần 50 ngàn doanh nghiệp đóng cửa. Có thể nói không ngoa rằng trong suốt 70 năm qua, kinh tế VN đi từ thất bại này đến thất bại khác. 
 
Bất cứ so sánh nào cũng khập khiễng, nhưng cần phải nhắc lại yếu tố thời gian rằng nước Nhật chỉ cần 20 năm là đạt được trình độ phát triển của các nước Âu Mĩ, Hàn Quốc cũng chỉ mất 20 năm để vươn mình thành một quốc gia tiên tiến, và gần nhất là Singapore cũng chỉ mất khoảng thời gian đó đến đưa thu nhập bình quân đầu người lên con số 55182 USD. Còn ở VN, thu nhập đầu người đến nay vẫn chưa đạt con số 2000 USD.
 
VN cơ bản vẫn là một nước nghèo. Theo World Bank, tỉ lệ nghèo ở VN tuy có cản tiến, nhưng vẫn ở mức ~21%. Ấy thế mà chính quyền VN thì tuyên bố rằng tỉ lệ nghèo chỉ 7%! Cái nghèo ở VN phải nói thật là thê thảm. Báo chí hôm qua mới đưa tin một em bé học sinh vì quá đói nên đã chết trên đường từ trường về nhà. Trước đó, một bà mẹ và 3 con đã vào rừng treo cổ tự tử vì nghèo đói. Ở miền Tây Nam bộ, một bà mẹ tự tử chết để người đi phúng điếu và lấy tiền đó nuôi con ăn học. Chưa bao giờ trong lịch sử VN có những trường hợp thương tâm như thế. Trong khi đó, có những đại gia bỏ ra hàng tỉ đồng để xây nhà cho chó mèo ở, có những người "đày tớ của nhân dân" sẵn tay vung tiền xây lâu đài, biệt thự cá nhân. Người Việt nào có thể nào tự hào khi đất nước có quá nhiều người nghèo như thế? 
 
Giáo dục và khoa học làng nhàng
 
Những con số thống kê cho thấy người Việt Nam thiếu tính sáng tạo. Số bằng sáng chế đăng kí mỗi năm chỉ đếm đầu ngón tay và cũng chủ yếu do các công ti nước ngoài làm. Có năm VN chẳng có bằng sáng chế nào được đăng kí với nước ngoài. Số bài báo khoa học của VN trên các tập san ISI hiện nay chỉ khoảng 2000, chưa bằng số bài báo của một đại học lớn ở Singapore, Mã Lai, Thái Lan. Phần lớn (~80%) những bài báo khoa học của VN là do các nhà khoa học nước ngoài chủ trì hay giúp đỡ. 
 
Người VN thường hay tự hào rằng VN có những người thợ khéo tay. Nhưng trong thực tế thì không phải vậy. Sự tinh xảo của người Việt chúng ta rất kém. Một người Pháp tên là Henri Oger (3) từng nhận xét về người Việt vào đầu thế kỉ 20 như sau: 
 
"Thợ thủ công An Nam cũng bị nhận xét là kĩ thuật sơ sài, không được giảng dạy đầy đủ về nghề nghiệp, thiếu sáng tạo, không có những phẩm chất đã khiến cho người thợ ở châu Âu trở thành nghệ sĩ." 
 
Làm ẩu. Kĩ thuật sơ sài. Thiếu huấn luyện. Thiếu sáng tạo. Tất cả những nhận xét đó đều đúng. Không khó khăn gì để có thể đi tìm những bằng chứng thực tế làm cơ sở cho những nhận xét đó. Gần đây khi công ti thời trang Hermes muốn làm một cái cổng cho cửa hàng ở Hà Nội mà hết 5 đợt thợ VN làm đều không đạt, và cuối cùng họ phải nhờ đến một nhóm thợ từ Pháp sang để làm. Tôi đi qua cây cầu Nhơn Hội nhìn từ xa rất hoành tráng ở Qui Nhơn, nhưng đi trên cầu mới thấy họ làm rất ẩu, thô, và có khi nguy hiểm. Ngay cả cây cầu Rạch Miễu mới rầm rộ khánh thành cũng có nhiều vấn đề kĩ thuật, và cũng rất thô. Nhìn gần những tấm hình kí giả chụp trên cầu Rạch Miễu mới thấy cách làm của ta rất ... hỡi ôi. Hình như người mình không có thói quen xem xét đến chi tiết, mà chỉ làm chung chung hay làm cho có mà thôi. Nhiều công trình của Việt Nam chỉ làm hình như nhằm mục tiêu khoe là “ta làm được”, rồi dừng ở đó, chứ không đi xa hơn. Thật ra, ngay cả “ta làm được” cũng không hẳn là làm được. Điều này rất tương phản với người Tây phương, những người mà khi làm cái gì họ cũng tính toán cẩn thận, xem xét từng chi tiết nhỏ, đánh giá lợi và hại một cách khách quan, v.v., cho nên khi công trình hoàn tất nó thường có chất lượng cao và lâu bền. 
 
Việt Nam ta nổi tiếng làm gia công quần áo cho các công ti Tây phương. Quần áo họ gia công đẹp, và khi ra ngoài này, thường bán với giá rất cao. Nhưng còn hàng trong nước cũng do những công ti gia công đó làm với nhãn hiệu “chất lượng cao” thì sao? Nói ngắn gọn là chất lượng thấp thì đúng hơn. Họ cũng bắt chước may những cái cáo sơ mi hiệu Polo, Nautica, Tommy Hilfiger, v.v., nhưng nhìn kĩ thì họ bắt chước rất kém. Chỉ nhìn qua đường chỉ là thấy họ làm ẩu. Nhìn qua cách họ làm logo cũng dễ dàng thấy đây là đồ dỏm, bắt chước. Người Tàu cũng làm hàng nhái, nhưng họ nhái giỏi hơn người Việt. Hàng nhái của Tàu lợi hại đến nổi chúng ta khó nhận ra thật và giả. Còn hàng nhái của Việt Nam thì còn quá kém. Làm hàng nhái mà còn làm không xong thì chúng ta khó mà nói đến chuyện lớn được.
 
Do đó, có thể nói rằng người Việt thiếu tính sáng tạo, không tinh xảo và không khéo tay. Chẳng có gì đáng tự hào về giáo dục và khoa học. Có người lấy những tấm huy chương Olympic ra để tự hào rằng người Việt cũng thông minh chẳng kém ai, nhưng họ quên rằng đó chỉ là những con "gà chọi" chứ không hề đại diện cho đám đông dân số VN. Lại có người thấy người Việt thành công ở nước ngoài và nhận bừa đó là minh chứng cho sự thông minh của người Việt, nhưng họ quên rằng những người đó do nước ngoài đào tạo, chứ chẳng dính dáng gì đến VN. Kiểu "thấy người sang bắt quàng làm họ" như thế và kiểu lấy những tấm huy chương đó để tự hào là một sự ấu trĩ. 
 
Xã hội bất an
 
Sẽ không quá đáng nếu nói rằng VN ngày nay là một xã hội bất an.  Ở trên, tôi có nói người Việt chuộng bạo lực, và sự "ưa chuộng" đó thể hiện rất rõ trong thời bình. Tôi không rõ thống kê về tội phạm ở VN so với các nước khác ra sao (vì VN không công bố tỉ lệ này), nhưng vài số liệu gần đây cho thấy tình hình tội phạm càng ngày càng gia tăng. Trong thời gian 1992-1994, mỗi năm trung bình có 26344 vụ án hình sự được đưa ra xét xử ở toà; đến năm 2006-2008 thì con số này là 65761 vụ (4), một tỉ lệ tăng gần 2.5 lần! 
 
Đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm giết người. Mỗi năm số vụ tội phạm giết người là hơn 1000 vụ và đang có dấu hiệu gia tăng trong thời gian gần đây. Chưa nơi nào có những vụ giết người vô cớ như ở VN: chỉ một cái nhìn cũng có thể dẫn đến cái chết! Vẫn theo thống kê, trong các vụ án giết người, giết người do nguyên nhân xã hội chiếm 90%, phần còn lại là chiếm đoạt tài sản (10%). 
 
Một trong những tội phạm đang kinh tởm nhất là buôn bán phụ nữ và trẻ em, và VN đứng khá cao trong loại tội phạm này. Số liệu thống kê từ năm 1998 đến 2006 cho thấy lực lượng chức năng đã phát hiện khoảng 5000 phụ nữ và trẻ em bị buôn bán!  
 
Chưa hết, tội phạm cưỡng hiếp phụ nữ ở Việt Nam cũng có hạng trên thế giới. Theo một thống kê gần đây, VN ở hạng thứ 9 về tỉ lệ tội phạm và nạn nhân bị cưỡng hiếp thấp (5). Singapore đứng đầu bảng về an toàn cho phụ nữ. Việt Nam là nước tìm kiếm "sex" trên Google nhiều nhất thế giới (6). Thử hỏi, chúng ta có thể tự hào với thứ hạng như thế? 
 
Đó là chưa kể một loại buôn bán phụ nữ khác được quảng cáo ở các nước như Tàu, Đài Loan, Singapore và Đại Hàn. Chưa bao giờ người Việt Nam chịu nhục khi con gái VN được cho đứng trong lồng kiếng như là những món hàng để người ta qua lại ngắm nghía và trả giá!  Thử hỏi, có người Việt Nam nào tự hào được khi đồng hương mình bị đem ra rao bán như thế. Xin đừng nói đó là những trường hợp cá biệt; đó là tín hiệu cho thấy một đất nước đang bị suy đồi về đạo đức xã hội. 
 
Ở VN, bước ra đường là chấp nhận rủi ro tai nạn, thậm chí chết vì sự hỗn loạn của hệ thống giao thông. Thật vậy, tai nạn giao thông ở VN đã và đang trở thành nỗi kinh hoàng của không chỉ người dân địa phương mà còn ở du khách. Năm 2013 cả nước xảy ra 31,266 vụ tai nạn giao thông, làm chết 9805 người và bị thương 32,266 người (7). Con số này tăng hàng năm. Số tử vong vì tai nạn giao thông thậm chí còn cao hơn số tử vong trong thời chiến! 
 
Phong cảnh thiên nhiên và môi trường xuống cấp trầm trọng
 
Một trong những yếu tố làm cho người Nhật tự hào và người Úc cảm thấy may mắn là đất nước của họ có môi trường sạch sẽ và cảnh quang thiên nhiên xinh đẹp. Còn Việt Nam, khách quan mà nói không có những cảnh quang thiên nhiên hùng vĩ như Mĩ hay Úc, không có một môi trường xanh tươi và vệ sinh như Nhật. Ngoài ra, điều kiện khí hậu nhiệt đới rất khắc nghiệt, làm cho con người dễ bị và uể oải và ảnh hưởng đến năng suất làm việc. 
 
Việt Nam là một trong những nước có mật độ dân số cao nhất thế giới. Với sức ép của sự tăng trưởng dân số, môi sinh đang bị đe doạ nghiêm trọng. Nếu chỉ tính những con sông dài hơn 10 km, VN có gần 2400 con sống, và đó là một tài sản quốc gia, một nguồn tài nguyên rất lớn. Nhưng hiện nay, phần lớn những con sông đó đang chết. Hầu hết những con sông chảy qua thành thị đều bị ô nhiễm nặng nề. Còn những con sông nhỏ ở vùng quê đang trở thành những thùng rác khổng lồ. Tất cả gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ và sinh hoạt của người dân.
 
Việt Nam cũng không có những đền đài lịch sử hoàng tráng hay tinh tế như China, Ấn Độ, Nhật Bản, Kampuchea. Nhiều đền đài, chùa chiềng, bia miếu ở ngoài Bắc đã bị tiêu huỷ trong thời "Cải cách ruộng đất", và sau này là chiến tranh. Ngay cả những đền đài còn "sống sót" cũng không được trùng tu và bảo trì nên càng ngày càng xuống cấp thê thảm. Người Kampuchea qua bao năm chiến tranh vẫn còn đền Angkor Thom, Angkor Wat để lấy đó làm niềm tự hào. Nhưng Việt Nam nói chung không có những công trình kiến trúc tinh tế và càng không có công trình hoành tráng để người dân có thể lấy đó làm tự hào. 
 
Bủn xỉn với cộng đồng thế quốc tế
 
Một nhóm nghiên cứu ở Âu châu gần đây công bố bảng xếp hạng gọi là "Good Country Index" (GCI) đã cho thấy VN đội sổ trong số các nước tử tế trên thế giới. Bảng xếp hạng này cho thấy VN đứng hạng 103 (trong số 124 nước) về đóng góp cho hoà bình và an ninh thế giới. Còn về đóng góp vào các quĩ từ thiện và cung cấp nơi nương tựa cho người tị nạn thì VN đứng hạng 123, tức áp chót! VN không tham gia kí vào các công ước của Liên Hiệp Quốc; tuy nhiên kiểm soát được sự tăng trưởng của dân số. Tính chung, thứ hạng về tử tế của Việt Nam trên thế giới đứng hạng áp chót (124/125). Điều đáng nói hay cũng có thể xem là nhục là thứ hạng tử tế của VN chỉ đứng chung bảng với mấy nước “đầu trâu mặt ngựa” như Lybia, Iraq, Zimbabwe, Yemen (8). Làm sao người Việt Nam có thể tự hào khi đứng chung với những nước đó? 
 
Sự bủn xỉn của VN thể hiện rõ nhất qua đóng góp vào quĩ dành cho nạn nhân sóng thần ở Nhật vào năm 2011. Trong đợt đó, VN đóng góp 200,000 USD. Chỉ hai trăm ngàn USD! Chúng ta có thể lí giải rằng VN còn nghèo nên đóng góp như thế là hợp lí. Nhưng lí giải đó có lẽ không thuyết phục. Thái Lan đã giúp nạn nhân sóng thần Nhật 65 triệu USD và 15 ngàn tấn gạo (9). So với tỉ trọng GDP, đóng góp của Thái Lan hơn VN 100 lần. Chúng ta có thể nào tự hào với mức độ đóng góp chỉ có thể mô tả bằng hai chữ "bủn xỉn" đó? 
 
Nói tóm lại, đánh giá trên 6 tiêu chí (truyền thống và văn hoá, kinh tế, khoa học-giáo dục, xã hội, phong cảnh thiên nhiên, và sống tử tế với cộng đồng thế giới), VN đều không có gì để lấy làm tự hào. Truyền thống không có gì nổi bậc, văn hoá không có nét gì nổi trội và đáng chú ý, kinh tế thất bại và người dân sống trong nghèo nàn và lạc hậu, không có thành tích gì đáng kể trong khoa học và công nghệ, xã hội bất an, môi trường bị xuống cấp trầm trọng, và cư xử không đẹp với cộng đồng quốc tế. 
 
Ngược lại, VN đã và đang là một gánh nặng cho thế giới. Sau 1975, hàng triệu người Việt bỏ nước ra đi và các nước phương Tây đã cung cấp nơi định cư (nhưng VN thì chẳng nhận người tị nạn từ Duy Ngô Nhĩ). VN cũng là nước chuyên xin xỏ: suốt năm này sang năm khác, quan chức VN ngửa tay xin viện trợ từ rất nhiều nước trên thế giới. Xin nhiều đến nỗi có quan chức nước ngoài phàn nàn nói "Sao chúng mày nói là chúng mày rất thông minh và cần cù mà cứ đi xin hoài vậy. Dân xứ tao phải làm lụng vất vã mới có tiền cho chúng mày". Thật là nhục. Xin người ta thì nhiều mà khi người ta gặp  nạn thì VN chẳng đóng góp bao nhiêu.
 
Nếu không xin thì cũng đi vay. VN bây giờ là một con nợ quốc tế. Nợ ngân hàng thế giới, nợ ngân hàng ADP, nợ đủ thứ ngân hàng và nợ đủ các nước. Chính phủ thì nói nợ công của VN là 54% (10), nhưng các chuyên gia độc lập thì nói con số cao hơn nhiều và ở mức báo động đỏ (tức là sắp vỡ nợ?) (11). Con số có lẽ quá lớn để cảm nhận, các nhà kinh tế học ước tính dùm cho chúng ta: mỗi một đứa trẻ mới ra đời ở VN hiện nay phải gánh một món nợ công 1000 USD. Có người biện minh rằng nợ như thế vẫn kém Mĩ, nước được xem là mắc nợ nhiều. Nhưng xin thưa rằng người giàu sản xuất ra máy bay (như Mĩ) mắc nợ rất khác với người nghèo không làm nổi cây kim và con ốc (như VN) mắc nợ. 
 
 Còn trong quan hệ quốc tế thì nhiều quan chức nước ngoài nhận xét rằng các quan chức VN nói một đường làm một nẻo và có tính lươn lẹo. Điển hình gần đây nhất là vụ đặc phái viên Liên hiệp quốc về tôn giáo đã nói thẳng VN thiếu thành thật. 
 
Do đó, không ngạc nhiên khi người VN cầm hộ chiếu VN ra nước ngoài không được chào đón thân thiện như người Nhật, Singapore, Hàn, Thái, Mã Lai, v.v. Một bản tin mới đây cho biết VN đứng hạng 81 về hộ chiếu được chấp nhận trên thế giới, tức miễn visa (12), và thứ hạng này còn thấp hơn cả Lào (80) và Campuchea (79). Tất cả những yếu tố đó cho thấy VN đang ở thế bất lợi trên trường quốc tế và không được cộng đồng quốc tế kính trọng. 
 
Nhìn chung, Việt Nam như là một ông già nông dân nghèo khó nhưng thích trang hoàng bề ngoài, đầy sỉ diện nên thích làm anh hùng rơm, thiếu tính sáng tạo và tinh xảo nhưng lại hay khoa trương, và cư xử bủn xỉn hay quen nói láo với hàng xóm. Nếu phải tự hào là người Việt thì có lẽ đó là chuyện của tương lai. 
 

Gs Nguyễn Văn Tuấn/ Tuan's blog

=====




CHND Trung Hoa, thể chế bị căm ghét nhất trên hành tinh này










Nhân chuyện biểu tình chống Trung Cộng ở ngay “quốc nội” Hồng Kông, ta điểm qua các kẻ thù của chế độ XHCN Trung Cộng vào lúc này. Với biên giới dài hàng chục ngàn km, giáp ranh với 14 quốc gia lớn nhỏ thì tuyệt đại đa số đó đều là những biên giới “không bình yên”, hoặc tiềm năng “không bình yên”.

Các chính sách Đại Hán, chỉ biết có lợi, ngông cuồng nên trong 14 nước có chung biên giới thì chỉ còn lại có Pakistan là có quan hệ hữu hảo, trước đây có CHDCND Triều Tiên, nhưng từ ngày chú Ủn lên cầm quyền thì đã diễn ra cảnh cơm canh không ngọt, suýt dẫn tới oánh nhau với Trung Cộng.

Nhưng diễn biến tình hình mới nhất thì Pakistan, xứ Hồi giáo “sớm đầu tối đánh” cũng đang muốn quay cờ vì phản đối TQ đàn áp Hồi giáo. Vậy là chẳng còn em nào hòa thuận với anh TC…

Nhìn ra biên giới biển thì biển Hoa Đông có vụ Điếu ngư đài tranh chấp với Nhật Bản. Biển Đông thì có các em Việt Nam, Philippines… tranh chấp Hoàng Sa.

Các xứ Hồi thuộc Liên Xô cũ có chung biên giới với TQ như Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan…đang công khai hoặc bi mật ủng hộ cho phong trào đòi độc lập cho xứ Hồi Tân Cương, Duy Ngô Nhĩ….đang bạo động với các vụ tấn công liều chết đẫm máu…

Rồi phong trào đòi độc lập của xứ Tây Tạng đã kéo dài hơn 50 năm nay với Lãnh tụ sáng chói Đức Lạt Lai Lạt Ma…

Rồi Pháp Luân Công càng bị đàn áo càng phát triển và hiện có hơn 100 triệu tín đồ…
 
Rồi 50 triệu Hoa Kiều sống ở gần 200 nước trên thế giới, tuyệt đại đa số đều chống lại chế độ hiện nay ở Bắc Kinh…

Và cuối cùng thì xứ nhỏ bé nhưng giàu có Đài Loan, nơi mà chính thể Quốc Dân Đảng (năm tới bầu cử sẽ giành quyền trở lại) là một chính thể duy nhất trên hành tinh này thề rằng, và viết trong cả Hiến Pháp rằng sẽ thống nhất với Trung Hoa lục địa sau khi tiêu diệt ĐCS và nhà nước CS hiện nay ở Trung Hoa.

Chẳng có gì để mà đi theo cái chính thể nhà nước mà cả Trời Đất, cả nhân loại không dung đó nữa…

Mai Tú Ân
FB Mai Tu An






Monday, 29 September 2014

Cái tát trong giáo dục - Sự ngu xuẩn hay bé tắc








Có rất nhiều cái tát nơi trường học, vì thế ta nên hỏi căn nguyên là ở đâu.. Tôi xem lại rất nhiều lần clip cô giáo bụng mang dạ chửa cứ lăm le tát cậu học trò, còn cậu ấy thì cứ như con cừu non phản kháng yếu ớt và có phần vẫn tôn kính cô giáo của mình chỉ là những phản ứng tự vệ của những đứa trẻ con trước một áp lực quá lớn, và một sự ức chế của một người giáo viên bùng phát.

Hình phạt trong giáo dục từ xưa của ta vẫn có, nhưng nó là một quy ước của thày vào trò, để nhận một cái roi, học trò cũng phải có tư thế nghiêm trang, sẵn sàng đón nhận sự điều chỉnh vì sai phạm của mình, người thày xưa cũng thế, trước khi cầm roi đánh học trò, cũng phải nghiêm nghị, nói rõ lý do và giúp cả hai bên hiểu rằng nó là một sự giáo dục nghiêm túc, một sự uốn nắn đến chân thiện mỹ và hình thành nhân cách của trò. Đoi khi nó được cả xã hội hưởng ứng và hoan nghênh cách hành xử như thế.

Ngày nay xã hội có sự chuyển biến, tính dân chủ và sự yếu dần của Nho giáo đã tác động không nhỏ đến giáo dục, học trò và người thày có một khoảng cách ngắn dần, tư tưởng Quân - Sư-Phụ đã không còn trong ý thức người trẻ nữa, nhưng thói quen giáo dục vẫn còn âm hưởng từ xưa truyền lại, nên xảy ra xung đột và mâu thuẫn là chuyện có thể xem là bình thường. Có một thực tế như thế vẫn diễn ra, nhiều và thường xuyên. Làm xã hội bức xúc và luôn lên án những người trong cuộc, phần lớn là người thày cô sẽ chịu áp lực dư luận trong những trường hợp như thế. Nhưng mồm mép thế gian là vậy, luôn chỉ nói về những gì thấy trước mắt. Tôi không ủng hộ những việc làm như thế nhưng có lẽ phải nói chuyện trên tầm vĩ mô một chút vả lại muốn nói đến trách nhiệm thật sự thuộc về ai.

Ở cái xã hội ta, cứ kiểm soát không được là cấm tiệt. Xe giường nằm rớt đèo thì cấm không cho đi đèo, có một dạo thuế VAT kiểm soát không được thì cấm sử dụng. Bia uống gây nhiều phiền hà thì cấm bán bia khuya. Gái làm đĩ không kiểm soát được thì cấm mại dâm.... Nghịch lý là có rất nhiều cái cần cấm thì không cấm, hoặc cấm mà chẳng có biện pháp chế tài, điển hình nhất là cấm đái bậy, chẳng ai bị phạt vì vi phạm cấm đái bậy, tôi cũng vậy....phiếm vậy thôi.

Thày giáo đánh học sinh thì cấm dậy, cô giáo tát học trò cũng cấm dậy. Mấy Ngài ở trên chỉ bết ngồi máy lạnh, trên lầu cao sân rộng rồi tha hồ ban bố lệnh cấm các loại. Sao các ngài không cấm chính mình ấy, các ngài dễ dãi với bản thân mình, với chính sách của mình, với trách nhiệm của mình. Các ngài đã làm tròn bổn phận của một nhà làm giáo dục chưa. Đụng chuyện gì các ngài cứ bảo là cơ chế, cơ chế nào vớ vẩn như thế, chẳng qua tư duy và năng lực các ngài có hạn lại mắc cái bệnh lười, tự mãn và trịch thượng. Xin lỗi các ngài kiểu làm giáo dục như thế là ngu xuẩn. Sách giáo khoa các ngài in vô tội vạ, chẳng có cái gọi là hoạch định đúng đắn, đổi xoành xoạch. Các ngài mang danh là một đội ngũ tri thức làm giáo dục, lãnh trách nhiệm đào tạo cả những thế hệ liên tiếp, các ngài cứ xem các ngài áp dụng cho trường học những gì, các ngài thí nghiệm hết thế hệ này đến thế hệ khác. Giáo dục đâu phải là khoa học thí nghiệm, các ngài đã chẳng xem con em thế hệ sau là một người học trò bằng thái độ nghiêm túc nhất. Các ngài cứ thấy giáo viên hành động thế là hù doạ cấm này cấm kia, có lúc nào các ngài ngồi lại với nhau mà hỏi rằng tại sao thế không?! Hay là các ngài chỉ họp giao chỉ tiêu thành tích này nọ. Người ta bảo người ngu cũng chỉ sai vài lần, đằng này các ngài đã sai bao nhiêu lần rồi?!!

Các ngài đã thật sự quan tâm đến người thày người cô chưa, hay chỉ là công cụ của các ngài triển khai các kế hoạch rỗi hơi của các ngài. Các ngài có khi nào đến gia đình một giáo viên ở một vùng quê để ăn một bữa cơm muối vừng cùng họ chưa, hay là mỗi lần vi hành của các ngài đều là gà luộc, bia rượu và nước ngọt có gas. Các ngài đã ngủ qua đêm trên một cái chõng tre mà đứa con của họ dùng làm bàn học ngay sau lưng họ không ???.

Các ngài hỏi tại sao giáo viên phải dạy thêm khi mọi người phản đối không. Các ngài có thấy rằng mỗi lần thu học phí dạy thêm là một lần lương tâm họ bị dằn vặt và sứt mẻ không. Ba tôi đã không chịu được cái cảnh thu học phí học thêm ông chọn cách phải một buổi dạy và một buổi đi đào khoai mì với thằng con trai, tôi hỏi sao bố không dạy thêm, ông chỉ cười bảo rằng là dạy thêm cũng về mua khoai mì thế này thôi, vậy đi đào cho nhanh con trai. Các ngài có ngồi quán siro ở cổng trường nọ nghe chủ quán nói rằng họ đã từng là một giáo viên dạy ở trong đó, vì không đủ cơm ăn mà phải bán siro ở cổng trường không. Sự trăn trở của người thày không chỉ là chuyện cơm áo, chuyện nữa là họ chính là đối tượng bị xã hội lên án nhiều nhất khi có sự cố, đôi khi họ cảm thấy họ là một tấm khiêng che cho các ngài với nhiều vết thương trên mình để các ngài họp báo chụp hình với những cái cà vạt vắt vẻo trên cái bụng mỡ mũn mĩn với thành tích này, huân chương nọ....

Chỉ những áp lực như vậy, các ngài cũng đủ hiểu rằng vì sao giáo viên lại khó kiểm soát được bản thân đến vậy. Các ngài không giải quyết cái căn nguyên của nó mà chỉ cấm và phạt, thế thì những cái tát ấy tuy nó là giáo viên làm, nhưng nó là cái mà xã hội dành cho các ngài. Đừng mang giáo viên và học trò ra làm miếng mồi ngon cho truyền thông, các ngài hãy can đảm nhìn nhận trách nhiệm và thể hiện tính chuyên nghiệp trong công việc của mình. Tôi không hiểu các ngài được đào tạo thế nào, đào tạo ở đâu mà thật chẳng có tác dụng là mấy. Thiết nghĩ với mấy cái bằng tiến sĩ các ngài đủ khả năng lèo lái giáo dục của một quốc gia, vậy mà các ngài đã chẳng làm được. Mọi cái các ngài đều nói là giáo viên và học trò. Trò đấy chỉ qua mặt được những người thiếu hiểu biết thôi, tiếc rằng hiện giờ người ta đã phỉ nhổ vào cái bằng mà các ngài cấp để tự học và thực học là chính. Vì khi tình yêu đã hết thì chia tay sớm bớt đau khổ như mấy em teen teen ấy nhỉ.
Bài viết thể hiện quan điểm của tác giả về thực trạng xã hội, không nhằm mục đích xuyên tạc bất cứ tổ chức cá nhân cụ thể nào.

Gã John




Lại một ông PGS.TS chém gió, nói khoác mà không biết ngượng








Bài viết này là bài viết mà tôi muốn phản biện cho hai bài viết của một ông PGs.Ts nữa, đó chính là ông Nguyễn Viết Thông, giữ một chức vụ to nhất: Tổng thư ký trong hội đồng lý luận trung ương, qua hai bài viết: KIÊN ĐỊNH CON ĐƯỜNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI, bài 1: Khát vọng của Nhân Dân [1] và Bài 2: Những thành tựu không thể phủ nhận [2] được đăng trên báo SGGP số ra ngày 14 và 16/09/2014.

Tôi không hiểu cảm giác của những độc giả khác ra sao khi đọc phải hai bài viết này, còn với cá nhân tôi đó là sự tra tấn, vì bị nhồi chữ và vì thông tin sai lệch, láo khóet. Nó làm cho người đọc như tôi nghĩ rằng bài báo của một ông có học cao lắm, chức vụ to lắm nên muốn nói gì thì nói, khinh thường độc giả, bất chấp cảm giác của độc giả. Hay ông ta nghĩ, “trình độ dân trí còn thấp” nên cứ việc copy, xào nấu, cắt dán mỗi chỗ một ít là thành một bài hùng biện là dân sẽ tin sái cổ? 

Ở bài thứ hai ông Nguyễn Viết Thông còn đưa ra được một vài con số và thông tin dù đó là thông tin què quặt, phiến diện và không đầy đủ, chứ còn bài viết thứ nhất, cả một bài ông ta viết cũng chẳng có một câu từ nào mới ngoài những văn kiện, báo cáo qua các kỳ họp của Đảng và chính quyền và những khẩu hiệu tuyên truyền được áp trương đầy đường. Nếu ngồi đọc liên tục không nghỉ, tôi phải nghĩ rằng ông PGs này bị ma nhập hoặc ông ta bê một báo cáo nào đó lên mặt báo vì nó giống như một văn kiện của cuộc tổng kết thi đua, kể lể loằng ngoằng, chẳng có cái gì gọi là chứng minh cho cái nội dung bao trùm bài viết: con đường này hay cái sông nọ là khát vọng của ai hết. 

ĐỐI VỚI BÀI THỨ NHẤT: Khát vọng của nhân dân

Câu chữ thứ nhất: KHÁT VỌNG CỦA NHÂN DÂN

Để cho phải lẽ, dù rằng tôi cảm thấy rất khó chịu với cách viết lấy được này, tôi cũng xin phản biện từng mảng lý luận mà ông Thông viết ra.
Xây đựng con đường XHCN là do ai đề xướng? Câu trả lời: Đảng CSVN chứ không phải là người dân VN.
Kiên định con đường XHCN là ý muốn của ai? Câu trả lời Đảng CSVN, không phải là nhân dân VN.
Đảng CSVN lên nắm quyền lãnh đạo do ai bầu: Câu trả lời là dân Việt Nam không ai bầu Đảng CS mà do Đảng tiếm quyền, tự xưng hô mình lên
Tại sao ông PGs Thông lại dám tráo ngôn mà nói rằng kiên định con đường XHCN là khát vọng của nhân dân? Nếu không tin, chính quyền có dám làm một cuộc trưng cầu dân ý hay không?

Sau khi đọc tuyên ngôn độc lập 1945, những người CS tự phong cho mình là giai cấp lãnh đạo. Trước đó CS chưa có được sự ủng hộ của dân chúng nên khi nạn đói xảy ra năm 1944-1945, cộng sản VN chẳng làm gì hiệu quả để giúp dân chống đói. Trong nguy cơ đói cận kề cái chết, người dân không còn e sợ sự đàn áp của chính quyền Pháp nên hưởng ứng phong trào cướp kho thóc của giặc. Trong lịch sử hoạt động của mình, đảng CSVN rất tự hào về hành động cướp kho thóc cứu đói cho người dân và thường xuyên nhắc đến việc này trong các tác phẩm phim ảnh, văn học như một ơn huệ ban phát cho dân, trong khi thóc là của dân và hành động này ban đầu do tự phát. Sự tiếm công này đã chiếm được cảm tình của nhân dân, dẫn đến sự kiện Cách mạng tháng Tám diễn ra thuận lợi. Thế nhưng khi cuộc chiến tranh với Pháp kết thúc, đảng Cộng sản lên nắm quyền ở Miền Bắc vào năm 1954 thì làn sóng di dân tránh cộng sản để chạy vào với tư bản miền Nam diễn ra mạnh mẽ do cuộc cải cách ruộng đất, đến nỗi ông Lê Duẩn còn thảng thốt kêu lên “đến cái cột điện mà có chân thì nó cũng đi”. Rồi đến năm 1975, khi người CS tuyên bố thống nhất đất nước, một làn sóng di dân lớn nhất trong lịch sử nhân loại của thế kỷ thứ 20 lại một lần nữa diễn ra, sự kiện tang thương này đã bổ sung cho từ điển thế giới một danh từ mới nữa đó là “thuyền nhân” (Boat people). Sao ông ta dám nói bừa “kiên định con đường XHCN là khát vọng của nhân dân”? 

Câu chữ thứ hai: Đó là công trình vĩ đại của Đảng và nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Chủ nghĩa xã hội và xã hội chủ nghĩa khác nhau ra sao? Hay đây là một cách chơi chữ nói cho nó vần mồm?

Tại sao lại là xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng lại bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa? Tức là xây một cái và bảo vệ một cái khác? 

Câu chữ thứ ba:” phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” 

Hay một câu tương tự “Đồng thời làm rõ hơn định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần”.

Thế nhưng “Tính đến tháng 11 năm 2007, đã có Trung Quốc, Nga, Venezuela, Nam Phi, ASEAN và Ucraina tuyên bố công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường đầy đủ” [3]. Còn hiện nay chính quyền VN đang năn nỉ Mỹ và nhiều nước khác như Nhật, các nước trong khối ASEAN, các nước khối EU công nhận là VN có nền kinh tế thị trường để hạn chế việc hàng hóa xuất khẩu của VN bị kiện bán phá giá, được nước nào tốt nước đó, hễ có ai công nhận là mừng rú lên đưa tin đầy mặt báo. Tại sao ông PGs Thông lại nói sai như thế? Hay là câu chữ trên thì nói với dân, dùng để đe nẹt dân tình rằng Đảng CS vẫn kiên định XHCN đấy, còn ra ngoài thì dấu nhẹm nó đi vì lòi đuôi XHCN ra thì chẳng ai thèm chơi?

ĐỐI VỚI BÀI VIẾT THỨ HAI: Những thành tựu không thể phủ nhận

Mở đầu bài viết, sau khi nhồi nhét một tràng khẩu hiệu, một câu thông ngôn cố hữu của hội đồng lý luận trung ương (ông nào cũng viết như vậy), ông Thông tuyên bố như sau “Thực hiện công cuộc đổi mới theo con đường xã hội chủ nghĩa ở nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước và nhân dân Việt Nam trong chặng đường gần 30 năm đổi mới vừa qua đã đạt được rất nhiều thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực.”

Thế nhưng để cho dễ so sánh tôi xin trích dẫn một bảng tăng trưởng GDP bình quân giữa VN và các nước trong khu vực để quý vị tự đánh giá [4].

Trong số 9 nước khảo sát, VN chỉ hơn Lào và Campuchia.

Hình ảnh mà bài viết của ông dùng để minh họa chính là Cầu Thủ Thiêm, xây ngầm vượt sông Sài Gòn, thế nhưng ông PGs Thông có biết gần như phần lớn các công trình nổi bật của VN từ năm 2000 tới giờ đều được thực hiện dựa vào vốn vay nước ngoài hay không? Để dễ hình dung tôi tạm so sánh hình ảnh bộ mặt Việt Nam hiện nay giống như một anh nhà nghèo mà diện quần áo mới (do đi vay mà mua được). Bây giờ là lúc phải trả nợ.

Liếc nhìn con số về nợ công của Việt Nam thì luôn có xu hướng tăng lên rất nhanh. Theo đánh giá của Bộ Tài chính, nợ công Việt Nam năm 2007 chiếm khoảng 33,8% GDP, năm 2008 chiếm 36,2% GDP, năm 2009 chiếm 41,9% GDP, năm 2010 chiếm 52,6% GDP và năm 2011 chiếm 58,7% GDP. Còn theo đánh giá của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), nợ công Việt Nam tăng từ 31,7% GDP năm 2001 lên 42,2% GDP năm 2005, đạt 52,7% GDP năm 2010. Tính trong giai đoạn 2007-2011, nợ công Việt Nam đã tăng khoảng 25%, đạt mức tăng trung bình 5%/năm. Tính theo tốc độ tăng trung bình, đến năm 2019, dự báo nợ công Việt Nam sẽ đạt mức 100% GDP [5] Trung bình một người dân VN từ người già tóc bạc cho tới âu thơ mới nứt mắt gánh một khoản nợ công là 826 USD vào năm 2013 [6] và tăng lên là 905 theo thống kê năm 2014 [7]

Còn tỉ lệ lạm phát của VN theo ghi nhận của tổ chức thế giới VN có mức lạm phát rất cao.

Tỉ lệ lạm phát của Việt Nam so với một số nước và thế giới năm 2010 [8]

Còn những đại doanh nghiệp nhà nước như Tập đoàn Sông Đà, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petro Vietnam), Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn Viễn thông Quân Đội, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn bị chính thanh tra của chính phủ phát hiện sai phạm gây tổn thất nặng nề. Việc đầu tư thua lỗ của các doanh nghiệp nhà nước độc quyền dẫn đến chính người dân và những người đóng thuế sẽ phải bỏ tiền của mình ra để trả nợ vì những sai phạm kinh tế làm lỗ tới hàng tỷ đôla gây ra bởi các tập đoàn, tổng công ty của Nhà nước. [9]

Năm 2012, theo nghiên cứu của tổ chức nghiên cứu Brookings của Mỹ, người Việt Nam có gánh nặng thuế và chi phí cao bậc nhất khu vực. Việt Nam có tỷ lệ dân nghèo (người có thu nhập dưới 2 USD/ngày) chiếm 18,2% dân số; tầng lớp trung lưu (thu nhập trên 5.600 USD/năm) chỉ chiếm 5,6% dân số. [10] Cá tập đoàn kinh tế nhà nước cốt lõi của nền kinh tế Việt Nam kinh doanh theo kiểu “lời ăn, lỗ dân chịu”, nhiều doanh nghiệp bị thua lỗ nặng như VINASHIN (nợ từ 80.000 đến 120.000 tỉ đồng) [11] VINALINE (nợ hơn 43.000 tỉ) [12] Vinaconex(nợ nghìn tỉ), EVN, Petro Vietnam… Tổng số nợ của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay là trên 50 tỷ USD [13]. 

Ông PGs Thông không đề cập tới “thành tựu” của giáo dục, của y tế, của an ninh trật tự xã hội ,…nên tôi không phản biện phần này. Tôi nghĩ con cố, thông tin cũng “ấn tượng” không kém so với kinh tế, nói ra bằng thừa. Chỉ biết ngửa mặt lên trời mà than một câu “sao các ông vô liêm sỉ như thế, cứ lừa mị dân, nói láo quen mồm mà không biết xấu hổ”

Thật là buồn cho nền khoa học VN, toàn những vị PGs như ông Nguyễn Viết Thông, PGs Nguyễn Mạnh Hưởng, GS Hoàng Chí Bảo,…ở cái lò ấp tư tưởng của hội đồng lý luận trung ương, chỉ sao chép, cắt dán, chém gió đến cái tầm cấp đó thôi sao? Chả trách là khoa học và giáo dục của Việt Nam không cất đầu lên nổi.

Trường Sơn/ Ba Sàm

.......................


Ảo tưởng thiên bẩm sinh ra quốc gia dốt và nghèo





Việt Nam cho tới nay chưa làm được cho dù một cái kim khâu, bởi chúng ta có quá nhiều thiên bẩm mà chưa có kỹ nghệ và óc khoa học!

Giáo dục Việt Nam thua kém các nước trong khu vực cả trăm năm, là vì chúng ta lúc nào cũng ca ngợi thiên bẩm mà không chú trọng đến giáo dục. Thậm chí không ít người Việt còn hát bài ca “văn hay chữ tốt không bằng ngu dốt lắm tiền”. Than ôi, đã ngu dốt, thì cái ăn, cái mặc còn khó nói gì đến giầu có!

Văn học nghệ thuật của Việt Nam như chính giới phải thừa nhận bé, vừa, tép riu, chúng ta thiếu vắng tuyệt đối các văn hào là vì không đủ tầm học vấn đỉnh cao lý tưởng mà mới chỉ cậy chủ yếu vào thiên bẩm!

Các chuyên gia nước ngoài nhận định: người Việt thường ôm mộng vĩ mô, thiên bẩm phi phàm nhưng thiếu óc thực tế và khoa học, kết quả lúc nào cũng bàn về những dự án hoành tráng như Vinashine … rồi đổ vỡ chóng vánh và thảm hại!

Có người bàn “không có thiên bẩm thì người ta chỉ là người thợ mà không thể trở thành bậc thầy”. Làm gì có ai trở thành bậc thầy mà không có giáo dục? Giờ hãy bàn về thầy và thợ. Giỏi như Đặng Thái Sơn, thi Chopin đạt giải nhất, nhưng cũng chỉ là nhạc công và là người thợ mà thôi. Nhưng thử xem, mấy anh làm ca khúc vớ vẩn hay mấy bài thơ đọc bên mép chiếu có dám đọ không? Một đằng lấy đấu đong không hết, một đằng nhiều thế hệ mới dạy và học được một người! Từ Âu qua Á, kỹ sư bao giờ cũng nhiều hơn thợ bậc bảy. Nhưng chẳng nhẽ thợ bậc bảy phải làm việc cả đời mới chạm đích lại thua kỹ sư ư? Cái lối tư duy thầy – thợ, đã dẫn đến chính thức ở Việt Nam thừa thầy thiếu thợ. Đây là kết quả của lối học vấn hão chuộng hư vinh, dẫn đến nghèo đói và lạc hậu.

Triết gia Nietzsche nói: “Một dân tộc có thiên tài không bằng cách chấp nhận thiên tài của dân tộc đó”.

Đây là một sự thật, không nên cãi cùn! Các chuyên gia bóng đá cho rằng: sẽ không có nền bóng đá mạnh cũng như cầu thủ siêu hạng nếu không có một quốc gia yêu bóng đá. Braxin có nhiều cầu thủ giỏi vì dân chúng ở đó yêu bóng đá đến độ nhảy lầu tự tử vì đội nhà thua. Mà muốn có một dân tộc biết chấp nhận thiên tài là gì? Dân tộc đó buộc phải học tập để có dân trí cao. Nếu dân tộc đó cậy vào ảo tưởng thiên bẩm cũng có nghĩa là không cần học thì chỉ hình thành cái gọi là dân tộc vô học.

Tài năng ư? Nguyễn Du viết “chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Các triết gia Hy Lạp không hề do dự khi cho rằng “Đạo đức của con người mới là cái cao quí nhất”. Tài năng chẳng là gì so với đạo đức cả. Thử nhìn đi những người lỗi lạc nhất thế giới phải là những người đạo đức. Chẳng hạn như Socrate, Platon, Aristote, Đức Phật Thích Ca, Chúa Jesus… là những người đạo đức và sống tốt. Từ đó người ta mới có thể tỏa bóng yêu thương xuống mọi người. Và là cây bút lớn để soi tỏa xuống nhân gian. Trong bảng thang giá trị: lập công là của chiến sĩ, lập danh là của thế tục, nhưng lập Đức phải bay lên giá trị thần thánh. Mấy bài thơ nhỏ bé vo ve chưa là gì cả mà muốn khoe cậy mình có thiên bẩm sao?

Van Gogh, một họa sĩ thiên tài, chẳng lẽ lại không có thiên bẩm ư? Ông rất giầu thiên bẩm nhưng ông vẫn bất an hoang mang thiếu tin tưởng vào mình đến độ cắt tai mình để họa chân dung. Điều đó nói lên điều gì? Nói lên, ông phải dấn thân xả thân ngay cả trong một bức tranh nhỏ bé nhất. Vậy thử hỏi mấy anh chưa làm chưa học được gì nhiều đã cậy vào thiên bẩm thì thành gì?

Tự mình nặn được một hòn bi có thể coi như sáng tạo. Nhưng để chuyển tải cả một hệ thống dây chuyền sản xuất kỹ nghệ về cũng không được gọi là sáng tạo. Nhưng người làm hòn bi vĩ đại hay người lắp ráp cả nền kỹ nghệ vĩ đại? Nguyễn Du là người chuyển tải Truyện Kiều về đã được thành thi hào. Tại sao? Vì ông là người chuyển tải cái đồ sộ hoành tráng về bằng lý trí. Trái lại cả vạn người làm thơ cảm xúc lèo tèo cho dù có giầu thiên bẩm đến cỡ nào cũng chỉ là tép riu lèo tèo.

Người ta xác định chắc chắn: triết học là khoa học của lý trí! Khoa học là lý trí! Nghệ thuật bậc thầy là lý trí! Vũ trụ này được kiến tạo lên phải nhân danh lý trí!

Trái lại: cảm xúc chỉ là những gì bồng bột, tạm bợ, chóng qua! Cảm xúc được coi như nằm ở các giác quan, còn thua trái tim, nhưng trái tim mới chỉ nằm trong lĩnh vực “nghệ thuật từ thiện” thôi.

Có thiên bẩm, như là lúa thì trồng dưới nước! Là đào trồng trên núi! Ai có thiên bẩm thì người đó giữ, có ai lấy đi của mình mà cứ phải nhắc đi nhắc lại sợ người ta quên. Vốn tự có, tranh tre nứa lá có thiên bẩm thì cũng chỉ là tre lá làm sao thành kim cương? Nếu có là kim cương nhặt được mà không qua bàn tay chế tác của thợ, thì cũng chỉ là kẻ bắt được, có gì để khoe?! Triết gia Aristote nói “Nghệ thuật là tạo tác”.

Một cục sắt rơi vào tay mọi người. Ở Việt Nam thì chỉ có thể làm đinh chứ không thể làm kim. Ở Trung Quốc họ làm kim. Ở Thụy Sĩ họ làm đồng hồ. Tất cả đều dựa trên trí tuệ, khoa học và công nghệ.

Người Việt còn chưa làm nổi cái kim thì khoe thiên bẩm làm gì? Nếu phải lên vũ trụ, Việt Nam mới chỉ đi nhờ! Những mây tre đan xuất khẩu có thiên bẩm liệu bò lên mặt trăng được không? Làm vài bộ phận trong chiếc xe hơi cũng chưa làm nổi. Hàng nghìn nhà thơ gục ngã ngay trước cửa trường ca không tài nào sản sinh ra nhân vật được, đó không phải là bằng chứng bất lực tuyệt đối của thiên bẩm sao? Cứ loay hoay biện hộ cho thiên bẩm làm gì?

Mời các bạn tự nhiên trả lời và dẫn chứng, vì người có học thì phải “nói có sách mách có chứng”. Còn tôi luôn luôn thấy, ai đó khoe mình có thiên bẩm thì chỉ là người ít học, chẳng có tài cán gì đặc biệt. Có một trí thức Việt đã nói: Người viết phê bình thì học vấn phải cao, người viết tiểu thuyết phải có tư duy lô gic, nhưng tôi thấy rất nhiều người chẳng có gì nhiều từ kiến thức đến tư duy nên họ làm thơ.

Có phải những người chẳng có gì nên đành khoe cái úm ba la là thiên bẩm? Chúng ta chớ nên quên, các học giả lớn không phải không có thiên bẩm đâu. Tôi sẽ đếm “từng lỗ chân lông” của tài sản thiên bẩm trong một bài gần đây.

Tác giả: Nguyễn Hoàng Đức








Bài mới đăng

Bài ngẫu nhiên