Powered By Blogger





Friday 28 February 2014

Trung Quốc đang có âm mưu gì ở Hà Tĩnh và Quảng Trị?






1. Đâu chỉ là tài nguyên, khoáng sản



Việc Trung Quốc trúng thầu và thâu tóm hơn 90% các công trình trọng điểm quốc gia trải dài khắp mọi miền đất nước Việt Nam thì ai cũng biết. Mới đây, khoảng giữa tháng 1/2014, các báo của Nhà nước còn cho biết, 60% doanh nghiệp phía Bắc có người Trung Quốc đứng sau lưng.

Lâu nay, người ta hay dùng danh từ “xâm lược” để chỉ về một cuộc chiến tranh quân sự, do nước A thực ahiện đối với nước B, thì hôm nay, cần được nghĩ khác. Theo tư duy này, ta có thể khẳng định: Trung Quốc đã và đang xâm lược Việt Nam một cách toàn diện. Theo đó, không chỉ hàng ngày, hàng giờ, họ đang gặm nhấm, lấn dần từng tấc đất nơi biên giới (mặc dù giữa hai nước đã cắm mốc), tấc biển ngoài khơi xa, mà họ còn xâm lược rất thành công về kinh tế, chính trị, và đặc biệt là về ngoại giao… Việc Việt Nam không chính thức kỷ niệm 40 năm Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa (19/01/1974-19/01/2014), 35 năm ngày Trung Quốc xâm lược Việt Nam (17/02/1979-17/02/2014) cho thấy, cuộc xâm lược của Trung Quốc đối với Việt Nam đã và đang hết sức thành công, không hề tốn một viên đạn mà thực hiện được mục tiêu một cách, ngoạn mục, mỹ mãn…
Câu hỏi được đặt ra ở bài này là: tại sao Bắc Kinh lại “ưu tiên” để cắm chốt ở Hà Tĩnh và Quảng Trị?

a. Đối với cảng Cửa Việt, Quảng Trị

Ngày 14/02/2014, đài VOA, trong bài viết có tựa đề “Báo động: Người Trung Quốc lại sắp lập căn cứ ở Quảng Trị”, tác giả là Blogger Lê Anh Hùng, cho biết:
“Công ty Cổ phần Chăn nuôi C.P. Việt Nam (một công ty sản xuất thức ăn gia súc, thuỷ sản và chăn nuôi hàng đầu Việt Nam, trước đây thuộc tập đoàn C.P. Group của Thái Lan, nhưng đã bị Trung Quốc thâu tóm kể từ năm 2011) sắp được giao 96,1ha đất, kéo dài hơn 2km dọc theo bờ biển và chỉ cách cảng Cửa Việt chưa đầy 1km”(1).

Cũng trong bài viết này, về vị trí chiến lược và sự nhạy cảm của cảng Cửa Việt, tác giả dẫn lời nhà văn Xuân Đức, một người con của tỉnh Quảng Trị, đã viết về thời kỳ chống Mỹ như sau: “… cuộc chiến trên cảng Cửa Việt và sông Cửa Việt nói riêng đã trở thành quyết chiến điểm khốc liệt nhất có ý nghĩa quyết định sự thành bại của cả chiến trường Miền Nam”.

b. Đối với cảng Vũng Áng, huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh

Tháng 4/2006, Khu Kinh tế Vũng Áng được thành lập, theo Wikipedia có diện tích tự nhiên 227,81 km2 (22.781 ha). Các hoạt động kinh tế được ưu tiên phát triển tại khu kinh tế Vũng Áng bao gồm: dịch vụ cảng biển, công nghiệp luyện kim gắn với lợi thế về tài nguyên và nguồn nguyên liệu (mỏ sắt Thạch Khê, mỏ titan,…).

Đáng chú ý là, Khu Kinh tế Vũng Áng đang được đầu tư Dự án nhà máy gang thép Formosa Hà Tĩnh (2) là một trong những dự án trọng điểm và lớn nhất của Tập đoàn Formosa (tiền thân là của Đài Loan, nhưng đã nhượng lại 100% cổ phần cho Trung Quốc?!) với tổng mức đầu tư 15 tỷ USD (gồm hai giai đoạn), nằm trên diện tích trên 3.300ha, trong đó diện tích đất liền là hơn 2.000 ha và diện tích mặt nước trên 1.200 ha.

Với quy mô lớn như vậy, thì người Trung Quốc có thể ăn nằm tại khu vực này khoảng 25 đến 30 năm, vừa để đầu tư xây dựng công trình vừa để khai thác vận hành nhà máy, vậy là đủ để một thế hệ người Tàu lấy vợ, lập thành phố người Tàu tại khu vực Kỳ Anh, Hà Tĩnh; sâu xa hơn, có thể là lực lượng địa phương sau này trong mưu đồ chia cắt Việt Nam thành hai miền.

Tháng 10/2013, đài RFA, đăng bài “Một Hà Tĩnh đầy ắp người Trung Quốc”, báo động tình trạng cát cứ của người Trung Quốc tại Vũng Áng, mà hậu quả về an ninh xã hội tại nơi này qua ý kiến của một người dân được bài báo trích đăng là:
“… Bây giờ, phần đông gia đình đã bán hết đất cho người Tàu, đất thì không còn nữa mà con cái thì nghiện ngập, hư hỏng, như vậy, chỗ an thân cũng không còn mà niềm hy vọng vào tương lai cũng bị đứt gãy. Điều này phải xem lại âm mưu của người Trung Quốc”.

Và đây là nhận định tổng quát của bài báo, khi tác giả nghe từ một phụ nữ:
“Có thể nói rằng có đến 70% thanh niên hư hỏng, nghiện nập. Và bà tỏ ra hoài nghi sự có mặt của những người Trung Quốc. Bà nghĩ rằng họ đến Kỳ Anh mua đất làm ăn không đơn thuần, họ có ý đồ không tốt và họ rất nguy hiểm”.

Nhưng đáng chú ý nhất, báo động đỏ cho tình hình tại Vũng Áng, phải là một comment (của một người địa phương nơi đây) trong bài: “Nhà văn Phạm Xuân Nguyên: Cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung là một sự thật lịch sử không thể xóa bỏ”, đăng trên Blog Dân Quyền (Diễn đàn XHDS) hôm 14/02/2014, toàn văn như sau:
“Cảm ơn nhà văn Phạm Xuân Nguyên đã nói lên những suy nghĩ của tôi và bạn bè tôi – những người đã chiến đấu có người đã anh dũng hy sinh, có người bị thương…. trong cuộc chiến chống Tàu cướp nước 2/1979, tại Bắc luân (Quảng ninh), ở Trung đoàn 288-Quân khu 3.

Tôi cũng rất đau lòng khi vùng đất quê Kỳ Anh (Hà Tĩnh) của anh Nguyên và chúng tôi đã được cầm quyền ĐCSVN bán cho Trung Quốc hơn 80 km2 thành khu căn cứ riêng mà chỉ có chức sắc Tỉnh ủy Hà Tĩnh và Đảng TƯ mới có thể được Tàu cho vào, còn chủ tịch tỉnh lấy chức danh đó cũng không được vào [? – NHQ]. Trung Quốc xây tường và nhà cao tầng dọc đường quốc lộ 1 từ Kỳ Anh đến Cẩm Xuyên hơn 20 km, chiếm hoàn toàn biển phía Đông đường Quốc lộ 1, để làm gì cũng không ai được biết.

Dân Kỳ Anh (Hà Tĩnh) mất đất, không việc làm. Trai thì cờ bạc, đề đóm, chích choác ma túy. Gái thanh niên, trung niên cặp nón, ô… môi son, má phấn, mắt xanh mỏ đỏ vẫy, gọi khách đi xe bắc Nam, công khai làm điếm vì không có việc làm, đất ở, đất ruộng, cả mồ mả cha ông… nay ĐCSVN BÁN CHO TÀU rồi . Trai Tàu lấy vợ Kỳ Anh, là mơ ước của gái Kỳ Anh ngày nay, vì đi làm điếm còn khổ hơn. Người Trung Quốc ở Kỳ Anh không cần theo luật CHXHCNVN là đi xe máy họ không cần đội mũ, mà công an còn cười chào thân thiện. Người Kỳ Anh mà đi xe máy không đội mũ thì chỉ có đi theo ông Trịnh Xuân Tùng – Hà Nội” (4).
Rõ ràng, Trung Quốc đang thực hiện cuộc di dân rất âm thầm, nhưng quyết liệt và hiệu quả vào lãnh thổ Việt Nam một cách hợp pháp, có sự tiếp tay của quan chức Việt Nam ở cấp cao, thông qua chính sách đầu tư xây dựng và khai khoáng.
Vũng Áng quả là một vị trí lý tưởng không chỉ để khống chế Việt Nam về mặt đường bộ, mà toàn bộ đường biển đi vào Vịnh Bắc Bộ. Một nguy cơ không thể không được báo động!

2. Tam giác căn cứ quân sự Du Lâm – Vũng Áng – Cửa Việt



Nếu không có sự kiểm soát chặt chẽ, thì rất có thể thông qua tam giác căn cứ quân sự Du Lâm – Vũng Áng – Cửa Việt, Trung Quốc dễ dàng chia cắt Việt Nam cả về đường biển và đường bộ, thậm chí chia Việt Nam thành hai miền.
Căn cứ hải quân Du Lâm(5) của Trung Quốc, được Bách khoa toàn thư Wikipedia giới thiệu: là căn cứ tàu ngầm, nằm ở thành phố Tam Á, ở cực Nam trên đảo Hải Nam, “là một mối lo an ninh cho các nước ASEAN cũng như Ấn Độ”. Theo bản đồ (kèm theo), từ Du Lâm đến Vũng Áng và Cửa Việt của Việt Nam, có chiều dài đường chim bay khoảng 320-350 km, trong khi khoảng cách giữa Vũng Áng đến Cửa Việt theo QL1A là 190 km. Ba đỉnh này tạo thành một tam giác, và với lực lượng hùng mạnh về tàu ngầm và tàu chiến mặt nước, Trung Quốc rất dễ dàng chia cắt hai miền của Việt Nam ở khu vực Vũng Áng và tỉnh Quảng Bình. Kể cả đường bộ và đường biển.
Phải chăng việc cấm người Việt Nam ra, vào Vũng Áng và Cửa Việt, bộc lộ ý đồ Trung Quốc muốn xây dựng hai vị trí này thành căn cứ quân sự bí mật của họ, phục vụ cho việc chia cắt Việt Nam bằng lực lượng hải quân khi chiến sự xảy ra. Đây chính là đáp án trả lời cho câu hỏi: tại sao Bắc Kinh lại “ưu tiên” để cắm chốt ở Hà Tĩnh và Quảng Trị.
(Nên nhớ, Quảng Bình, nơi nằm giữa Vũng Áng và Cửa Việt, là vùng đất hẹp nhất trên dải đất hình chữ S của Việt Nam, bề rộng chỉ hơn 40 km tính từ bờ biển đến biên giới Việt-Lào).

3. Vũng Áng – Cửa Việt và việc thực hiện “đường lưỡi bò”




“Đường lưỡi bò” (màu đỏ) và luồng vận chuyển hàng hải quốc tế (màu trắng)
Ta dễ dàng nhận thấy, phần lớn chiều dài về phía Nam của “đường lưỡi bò” nằm trên lãnh hải chủ quyền của Việt Nam và Philippines; trong khi, do khu vực Quần đảo Trường Sa gồm nhiều đảo nhỏ, biển nông, luồng tàu hẹp… cho nên, theo bản đồ trên đây, ta thấy luồng vận chuyển của các tàu viễn dương quốc tế chỉ đi trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam (đường màu trắng mờ).
Liệu Trung Quốc có thể khống chế diện tích theo “đường lưỡi bò” mà họ đã tuyên bố hay chăng? Tất nhiên, chỉ với điều kiện Trung Quốc khống chế được Việt Nam. Xin dẫn một đoạn về tham vọng của Mao Trạch Đông: “Chủ tịch Mao Trạch Đông (còn) khẳng định trong cuộc họp của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, tháng 8 năm 1965: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu Á, bao gồm cả miền nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malayxia và Singapo… Một vùng như Đông Nam châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản… xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy… Sau khi giành được Đông Nam châu Á, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô-Đông Âu, gió Đông sẽ thổi bạt gió Tây…”. (Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua, NXB Sự Thật, 1979).
Như vậy, tham vọng chia cắt Việt Nam một lần nữa như đã nói trên, không phải là không có căn cứ, với bọn Bá quyền Đại Hán Bắc Kinh, thì mọi việc đều có thể.

4. Vài lời kết

1. Không ngẫu nhiên mà Trung Quốc thực hiện đầu tư lớn vào hai vị trí Vũng Áng, Kỳ Anh, Hà Tĩnh và cảng Cửa Việt, tỉnh Quảng Trị. Thời gian đầu tư dài, trên một dải đất hẹp nhất của Việt Nam, đủ điều kiện để Trung Quốc thay người Việt ở hai địa phương này bằng người Tàu. Rất có thể có nguy cơ đến một thời điểm thích hợp (sau 15-25 năm), Trung Quốc sẽ phát động chiến tranh và chia đôi Việt Nam một lần nữa để mưu chiếm toàn bộ Biển Đông.
2. Nếu vẫn tiếp tục để Trung Quốc lộng hành và không kiểm soát được họ tại hai địa điểm nói trên thì đó là sai lầm mang tính lịch sử. Nhân dịp 35 năm ngày xảy ra chiến tranh Trung Quốc xâm lược Việt Nam (17/02/1979-17/02/2014), việc để Trung Quốc bất ngờ phát động và xâm lược trên toàn cõi biên giới phía Bắc đêm 16 rạng sáng ngày 17/02/1979, mà phía Việt Nam không hề hay biết, là bài học cảnh giác, nếu như còn muốn Việt Nam tồn tại như một quốc gia độc lập, mà không muốn bị chia cắt một lần nữa hoặc tự biến thành một tỉnh của Trung Quốc.

Nguyễn Hữu Quý

.......................
Nguồn tham khảo:










Anh lang thang lượm nhặt nỗi nhớ....








Ngày thứ hai là ngày nghỉ, nhưng đôi khi sự nghỉ ngơi lại có thể mệt nhọc và phiền hà hơn cả những ngày làm việc. 

Những ngày em ở đây anh chỉ mong có được một ngày nghỉ để được cùng em đi chơi, đi thăm bạn bè, bây giờ xa em anh lại sợ những ngày nghỉ. Những ngày làm việc thời gian dường như trôi nhanh hơn, nỗi nhớ em khuây khoả đi rất nhiều. 

Hôm nay anh đi dạo hết cả nửa ngày. Bước chân anh dã đi qua bao con phố dường như quen lắm. Muốn tìm một bóng dáng thân quen nhưng tìm hoài chẳng thấy. Bãi tắm hôm nào giờ đã ít người hơn, cánh đồng cỏ lau vẫn điệu đà lả lơi với gió nhưng thiếu tiếng em cười. Anh một mình lang thang giữa cánh đồng gió lộng và trong cái sự lang thang của mình anh lượm nhặt vào tim nỗi nhớ đến khôn nguôi

Lang thang mãi rồi anh cũng trở về phòng nét để gửi email cho em. Muốn tấm sự với em đôi điều, sợ em chờ tin anh sẽ buồn. Muốn nói với em rằng em chớ vô tình , để quên anh ngoài nỗi nhớ!

Kalomna15/8/2005 
T.Hải






Thursday 27 February 2014

Trời cho nắng, sao ta chưa phơi!









Có lần, một đồng nghiệp nước ngoài đến VN đi chơi một vòng, ông ấy hỏi tôi: “người Việt Nam theo đạo gì?” Tôi ngạc nhiên, nhưng cũng nói “Đạo Phật và thờ cúng ông bà”. Ông ấy nói tưởng theo đạo Hồi chứ, vì thấy người đi đường mặc khẩu trang kín mít! Tôi không biết ông ấy châm biếm hay nói thật, nhưng nhìn nụ cười thì chắc ông ấy nói chuyện vui. Tôi lại nghĩ người đi đường theo “đạo giao thông”. Người mình, nhất là nữ, thích giữ làn da trắng, nên họ trùm kín mít từ đầu đến chân. Nhưng tôi nghĩ thói quen này không tốt cho việc hấp thu vitamin D. Nói thì nói thế, chứ thuyết phục họ không phải dễ.

Trong khi người mình thích làn da trắng (bệch) thì người Tây bây giờ thích làn da bánh ích mật. Đây là câu chuyện về giai cấp và tâm lí xã hội mà hi vọng tôi sẽ quay lại bàn tiếp.

Hầu như không có bệnh mãn tính nào không liên quan vitamin D. Việc bổ sung vitamin D tương đối rẻ tiền và cũng không gây ra những ảnh hưởng phụ nguy hiểm. Tuy vậy, 40% dân số thế giới vẫn thiếu nó!

Nghiên cứu dịch tễ học cho thấy những người sống ở các vùng với độ vĩ tuyến cao (như các nước Bắc Âu, Bắc Mỹ) mắc bệnh ung thư, xơ cứng bì, viêm khớp, đái tháo đường, tim mạch, tai biến, hay bị nhiễm trùng… Những vùng này cũng là những vùng thiếu vitamin D trầm trọng.

Mới đây, có nghiên cứu cho thấy tỉ lệ thiếu vitamin D trong dân số ở các nước Bắc Âu và Bắc Mỹ lên đến 50-70%. Các giới chức y tế ở đây xem đó là một vấn nạn y tế công cộng, nên họ có chính sách bổ sung vitamin D trong thực phẩm như bơ sữa, nước cam và bánh mì.

Vì vitamin D được sản xuất từ ánh nắng mặt trời, người ta thường lầm tưởng rằng ở những nước nhiệt đới như nước ta không có vấn đề thiếu vitamin D. Sự thật là ngược lại: một tỉ lệ lớn dân số trên thế giới, kể cả các nước nhiệt đới, thiếu vitamin D. Theo ước tính của các chuyên gia, 40-50% dân số trên thế giới thiếu vitamin D. Nghiên cứu ở Thái Lan và Malaysia cho thấy cứ 100 người thì có khoảng 50 người thiếu vitamin D. Riêng ở Nhật và Hàn Quốc, tỉ lệ thiếu vitamin D lên đến 80-90%!

Thực phẩm chưa đủ

Ở nước ta, chưa có một nghiên cứu nào đánh giá về tình trạng thiếu vitamin D trong cộng đồng. Nếu các nghiên cứu trong vùng là những tín hiệu, chúng ta có thể đoán rằng tỉ lệ thiếu vitamin trong dân số khoảng 40%.

Liều lượng vitamin D mà cơ thể con người cần là 3.000-5.000 IU/ngày (IU là đơn vị quốc tế để đánh giá liều lượng vitamin D), nhưng liều lượng tiếp thu từ thức ăn hằng ngày chỉ bằng 10% nhu cầu. Thực phẩm chúng ta dùng hằng ngày chứa rất ít vitamin D. Các loại cá giàu chất dầu như cá hồi, cá tuyết, cá thu, cá trích có lượng vitamin D cao hơn những cá khác. Nấm phơi khô chứa nhiều vitamin D hơn nấm tươi. Một bữa ăn trung bình với cá và nấm chỉ có 400-500 IU vitamin D.
Vitamin D thường được xem là “vitamin trời cho”, bởi vì như đề cập trên, 90-95% hàm lượng vitamin D được sản xuất qua phơi nắng.

Nhưng ngày nay nhiều người có lẽ do muốn giữ làn da trắng nên thường bao kín mít tay, chân, mặt để… chống nắng. Thói quen này có thể dẫn đến tình trạng thiếu vitamin D trong cơ thể nghiêm trọng.

“Kỷ nguyên vitamin D”



Có nhiều nghiên cứu cho thấy vào mùa hè chỉ cần phơi nắng trong vài phút (10-20 phút), lúc đó cơ thể chúng ta đã sản xuất được trung bình 20.000 IU vitamin D (nhưng ở một số người mức độ có thể dao động 10.000 - 50.000 IU). Do đó, có lẽ đã đến lúc chúng ta cần bỏ ra vài phút ngoài nắng để nạp đầy đủ vitamin D và cũng là một cách phòng chống bệnh tật.

Trong thời gian gần đây, bệnh truyền nhiễm thường xuyên bộc phát, và trong thực tế vẫn còn là một trong những nguyên nhân tử vong hàng đầu. Ngoài bệnh truyền nhiễm, các bệnh liên quan đến hiện đại hóa như tim mạch, tai biến mạch máu não, ung thư, viêm khớp, loãng xương, đái tháo đường… càng ngày càng tăng.

Tất cả bệnh này đều liên quan đến vitamin D. Thật ra, hầu như không một bệnh mãn tính nào không có liên hệ với vitamin D! Trong một hội nghị về vitamin D diễn ra ở Mỹ năm ngoái, một chuyên gia hàng đầu cho rằng y học thế giới đang ở trong “kỷ nguyên vitamin D”.

Trong kỷ nguyên vitamin D, vẫn còn một loạt câu hỏi cần được đặt ra và cần nghiên cứu thêm ở nước ta. Những câu hỏi thông thường nhất là: có bao nhiêu người Việt trong tình trạng thiếu vitamin D, nồng độ vitamin D bao nhiêu là tối ưu cho người Việt, mối liên hệ giữa các bệnh nhiễm trùng, dịch tả và vitamin D như thế nào, tại sao trẻ em ở thôn quê phơi nắng ít bị cảm cúm so với trẻ em ở thành thị?…

Giải đáp những câu hỏi này chẳng những làm sáng tỏ vai trò của vitamin D trong việc phòng chống bệnh tật và giảm tử vong trong cộng đồng, mà còn thể hiện một đóng góp quan trọng cho y học quốc tế.


Đủ vitamin D, sống khỏe hơn

Kết quả nghiên cứu lâm sàng mới công bố trên một tập san y khoa ở Mỹ cho thấy phụ nữ được bổ sung vitamin D và calcium giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư gần 80%. Quan trọng hơn, nồng độ vitamin D trong máu càng cao, nguy cơ mắc bệnh ung thư càng thấp; và ngược lại, những người có nồng độ vitamin D thấp thì nguy cơ mắc bệnh ung thư tăng cao.

Vitamin D không phải là một sinh tố bình thường (như sinh tố A, B, C), mà thực chất là một loại hormon hay kích thích tố.

Vitamin D được biết đến như là một hoạt chất có ảnh hưởng đến sự phát triển và duy trì xương. Tuy nhiên, qua nhiều nghiên cứu khoa học gần đây, các nhà khoa học phát hiện nhiều mối liên hệ quan trọng. Thiếu hụt vitamin D không chỉ làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư, mà còn tăng nguy cơ mắc bệnh loãng xương, tim mạch, cao huyết áp, tai biến mạch máu não, đái tháo đường, vảy nến, viêm đường ruột, viêm khớp, viêm gan, nhiễm trùng, lao phổi...

Người thiếu vitamin D thường bị đau nhức cơ bắp, hay bị té ngã và dễ bị gãy xương. Ở những phụ nữ lúc mang thai, thiếu vitamin D làm tăng nguy cơ sinh con với chấn thương não, thậm chí dị tật.
Một nghiên cứu trên 13.000 người Mỹ tuổi trên 20 cho thấy những người có nồng độ vitamin D thấp có nguy cơ tử vong tăng 26% so với những người có nồng độ vitamin D bình thường.

Một số nghiên cứu gần đây còn cho thấy vitamin D đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hệ thống miễn nhiễm.



Copyy từ địa chỉ blog: http://tuanvannguyen.blogspot.com







Ngồi Thiền và lợi ích của Ngồi Thiền





Infographic - Ngồi Thiền và lợi ích của Ngồi Thiền

Nói một cách đơn giản, thiền là những phương pháp giúp hình thành thói quen tập trung tư tưởng để làm đúng công việc mà chúng ta muốn làm và đang làm. Đặc biệt thiền giúp điều chỉnh lại tình trạng mất cân bằng giữa hưng phấn và ức chế của hệ thần kinh do quá trình sinh hoạt và làm việc căng thẳng gây ra.

Ngồi Thiền và lợi ích của Ngồi Thiền

Có nhiều phương pháp thiền khác nhau, nhưng tựu trung vẫn là giúp người luyện tập có thể tập trung chú ý vào một điểm ở trong hoặc ngoài cơ thể, vào một đề tài, một hình ảnh hoặc một câu "chú" nhất định nhằm đưa cơ thể tiến dần vào tình trạng nhập tĩnh khi tâm không còn bất cứ ý niệm nào. Cùng theo dõi infographic sau để biết thêm thông tin về lợi ích của ngồi thiền nhé!!!


Ngồi Thiền và lợi ích của Ngồi Thiền

8 lý do nên từ bỏ Facebook ngay bây giờ










Facebook là môi trường hoàn hảo để “tô vẽ” chính mình nhưng cũng chính Facebook khiến người dùng dễ nảy sinh nhiều cảm giác tiêu cực như ghen tức, trầm cảm và mỉa mai nhất, Facebook khiên người ta cô lập và đơn côi. Facebook đang là mạng xã hội (MXH) lớn nhất thế giới với hơn một tỷ người dùng và chứng nghiện Facebook đang ngày càng phổ biến.

Tuy nhiên, trên trang Huffingtonpost, Matt Steel - Giám đốc sáng tạo của St. Louis, một nhà thiết kế và đồng thời là một nhà thơ nổi tiếng, đã đưa ra những lý do tại sao nên từ bỏ Facebook càng sớm càng tốt. Dưới đây là những kinh nghiệm của Steel trong những nỗ lực từ bỏ MXH.

Gần đây, tôi đã thử thay đổi đời sống tinh thần của mình bằng một tuần “ăn chay”, tuân theo những nguyên tắc chặt chẽ dưới đây:

- Không đọc sách báo, sách audio và không nghe nhạc.

- Không đọc tin tức trên website.

- Không xem TV quá 1h mỗi ngày.

- Không dùng bất cứ mạng xã hội nào.

- Đọc, gửi email mỗi ngày 2 lần, xóa hết các email không liên quan.

- Không dùng trình duyệt web, trừ khi nó tối cần thiết cho công việc.

Trong quá khứ, tôi đã từng thử một lần với phương pháp tương tự: xóa mọi ứng dụng MXH, gỡ bỏ trình duyệt và tắt email trên thiết bị di động.

Tất nhiên, kế hoạch của tôi đã nhanh chóng bị phá sản, tôi mở lại tất cả các ứng dụng trên và dẹp bỏ được cảm giác thiếu thốn khó chịu. Nhưng đối với MXH, khi trở lại, tôi luôn có cảm giác như một con mèo đang ăn vụng.

Có hai kiểu “kết nối số”, một kiểu giúp ích và kiểu làm hại cho chúng ta. Nếu nó quá khó phân định tốt - xấu, bạn hãy cân nhắc về một thứ khác: thời gian. Bên cạnh tình yêu, thời gian là thứ quý giá nhất mà chúng ta có được, đừng sử dụng nó một cách quá phung phí. Đó chính là một trong những lý do chính tôi từ bỏ Facebook.

1. Facebook dễ biến chúng ta thành những một người thân hờ hững. Tôi thường nhìn thấy anh chị em, cô dì, bạn bè, hay thậm chí cả bố mẹ trên Facebook, Instagram mỗi ngày và tôi nghĩ thế là đủ.

Tôi gần như không bao giờ động đến điện thoại. Nhưng rồi tôi nhận ra, Facebook không phải là thứ tôi cần để hâm nóng hay giữ gìn các mối quan hệ thực sự.

2. Trên Facebook, bạn có thể “mở rộng” nhưng không thể “đi sâu” trong các mối quan hệ. Facebook có thể đem lại “số lượng lớn” các mối quan hệ nhưng “chất lượng” của nó lại là điều không ai dám chắc.

3. Facebook gây nghiện, đó là sự thật không thể chối cãi. Facebook gần như luôn khiến người dùng thấy không bao giờ thấy hài lòng và luôn muốn có nhiều hơn nữa: bạn bè, danh tiếng (ảo), Like, chia sẻ, bình luận, người theo đuôi... Càng gắn bó với Facebook, người ta càng “phát cuồng” vì nó hơn.

4. Facebook là môi trường hoàn hảo để “tô vẽ” chính mình. Khi chìm đắm trong khía cạnh này, Facebook thường khiến người dùng nảy sinh nhiều cảm giác tiêu cực như ghen tức, trầm cảm và mỉa mai nhất, Facebook khiên người ta cảm thấy bị cô lập và đơn côi.

5. Facebook cũng là nơi mà những thông tin hữu ích thật sự bị nháo nhào trong một mớ thông tin hỗn độn khác. Việc phân chia, kiểm chứng thông tin trên Facebook là một việc quá nặng nhọc.

6. Hơn nữa, tôi đã thật sự nhận ra rằng mỗi khi tôi lướt Facebook là khi lãng phí thời gian của mình. Hãy dành thời gian rảnh rỗi để chơi Lego với con hay trò chuyện với vợ còn ý nghĩa hơn gấp nhiều lần.

7. Hầu hết các thông tin trên Facebook đều là tin rác, những status của những người xa lạ, thông tin về những sự kiện không hề có ý nghĩa thiết thực gì đối với cuộc sống của bạn.

8. Facebook đã dạy tôi những bài học đắt giá về giá trị của tự do cá nhân.

Chính vì vậy, tôi đã quyết định từ bỏ Facebook, điều đó không có nghĩa rằng các mối quan hệ tôi đang có sẽ bị cắt đứt, nó chỉ làm cho các mối quan hệ tôi có thiết thực hơn. Tôi thực sự chờ đợi một cuộc sống mới sau khi từ bỏ Facebook.

Hoàng Hải (lược dịch)
Theo: Infonet





Tản mạn chuyện Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam



       




Phần 1: Chuyện Liên Xô sụp đổ





Kể từ thời điểm Liên Xô và các nước trong phe XHCN ở Đông Âu sụp đổ cách đây hơn hai thập kỷ, cứ đến dịp mồng 7 tháng 11 dương lịch là truyền thông trong nước và quốc tế lại có nhiều bài nhận định, đánh giá về sự kiện lịch sử quan trọng này.

Từng có cơ hội được làm nghiên cứu sinh tại bộ môn Quan hệ Kinh tế Quốc tế của một trong những “lò đào tạo” khoa học  Kinh tế hàng đầu của Liên Xô thời đó là Trường Kinh tế Quốc dân mang tên Plekhanov, lại  trùng  vào giai đoạn giáo sư chủ nhiệm bộ môn  là TS  Ruslan Imrannovich Khasbulatov  - sau này giữ cương vị  Chủ tịch Quốc hội Liên Bang Nga,  thời xảy ra những biến cố dẫn đến việc Liên Xô tan rã, và kể cả sau khi giáo sư từ bỏ “chính trị  bẩn thỉu“ (nguyên văn lời GS Ruslan Khasbulatov) để “về vườn”, tiếp tục dạy học nên tôi có nhiều dịp được trao đổi và tranh luận thẳng thắn, được nghe những ý kiến riêng tư của giáo sư về những vấn đề thời cuộc của nước Nga và quốc tế.

Hơi khác với những đánh giá nghiêng về chính trị, mang mầu sắc của “ thuyết âm mưu”  có xu hướng kết tội ban lãnh đạo ĐCS Liên Xô, đứng đầu là TBT Gorbachev đã xa rời các đảng viên trung kiên và quần chúng, thậm chí đã “phản bội lại chủ nghĩa Mác- Lê v.v… dẫn đến sự sụp đổ của cả hệ thống các nước XHCN, Khasbulatov lại cho rằng bên cạnh các lý do trực tiếp liên quan tới sự lãnh đạo của ĐCS Liên Xô thì nguyên nhân sâu xa và bao trùm vẫn chính là những khuyết tật mang tính hệ thống của thể chế chính trị - kinh tế- xã hội Xô Viết.

Điều mà trước đây ít ai ngờ tới là các khẩu hiệu “giương cao ngọn cờ của chủ nghĩa Mác- Lê nin” và “vô sản toàn thế giới liên hiệp lại” mà ĐCS Liên Xô lấy làm phương châm hành động về thực chất lại che đậy những toan tính chiến lược nhằm xác lập và củng cố vị thế lãnh đạo thế giới của Liên Xô với thành phần nòng cốt là dân tộc Nga. Chậm chân hơn các quốc gia Tây phương trong tiến trình phát triển để vươn lên vị trí toàn cầu, nước Nga đã chọn cho mình một lối đi riêng: lấy chủ nghĩa Mác – Lê làm nền tảng tư tưởng để tập hợp quần chúng vô sản đói khổ đang hình thành đông đảo ngay tại nước Nga Xa Hoàng và trên toàn thế giới khi mà CNTB đang trong thời kỳ tích lũy tham lam nhất của nó. Phong trào cộng sản nhờ đó đã thu hút được hàng triệu quần chúng và trở thành một lực lượng hùng mạnh trong thế kỷ XX.

Quốc hữu hóa toàn bộ tư liệu sản xuất, cướp lại của cải từ người giàu để tập trung nguồn lực vật chất trong tay nhà nước và thực hiện mô hình XHCN toàn trị ( độc đảng chính trị lãnh đạo toàn diện xã hội, kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, phi thị trường … ) trong mấy chục năm đầu tiên đã tạo nên bước nhảy vọt ngoạn mục khiến nhiều người cho rằng Liên Xô sẽ vượt Mỹ . Tuy nhiên ngay tại chân đế của tượng đài Xô Viết đã có những vết nứt mang tính cấu trúc cảnh báo một sự sụp đổ khó tránh khỏi.

Bước phát triển vượt bậc của Liên Xô trong mấy chục năm sau Cách mạng tháng 10 có liên quan đến cơ chế huy động mọi nguồn lực xã hội bằng sức mạnh chuyên chính của nhà nước toàn trị đồng thời sử dụng “ lợi thế thông tin” của người đi sau. “Lợi thế “ ở đây chính là thông tin về mô hình chuyên môn hóa sản xuất, phân bổ nguồn lực vào những ngành công nghiệp có năng suất cao nhất mang lại tỷ lệ tăng trưởng cao. Có điều là những thông tin này không bắt nguồn từ nội bộ nền kinh tế Liên Xô mà lại là từ các nước Phương Tây phát triển, nơi mà kinh tế thị trường tự do với tính đa dạng và năng động dưới tác động của quy luật “ bàn tay vô hình” Adam Smith kết hợp với động lực sáng tạo cá nhân theo lý thuyết tiến hóa của Schumpeter  hình thành nên.

Kinh tế thị trường (được hiểu như điều kiện đủ) đóng vai trò phòng thí nghiệm khổng lồ nơi mà các phương pháp tổ chức kinh doanh, công nghệ, kỹ năng, trình độ học vấn và hệ thống nghiên cứu & phát triển …(được hiểu như các điều kiện cần) liên tục kết hợp, cạnh tranh khốc liệt để hoàn thiện và cho ra đời những đổi mới cơ bản trong quá trình tiến hóa .

Liên Xô từng tự hào có một nền giáo dục tiên tiến, các trang thiết bị nghiên cứu hiện đại cùng đội ngũ các nhà khoa học và nhà nghiên cứu đầu ngành. Tuy nhiên Liên Xô vẫn không tạo ra những đổi mới cơ bản mang tính tiên phong về công nghệ và kinh tế cho dù quốc gia này đã bắt kịp các nền kinh tế công nghiệp tiên tiến của Phương Tây trong những năm 50- 60 thế kỷ trước. Ngay cả trong lĩnh vực công nghiệp quốc phòng mặc dù đạt được những thành tựu đột phá vượt trội nhưng do thiếu tư duy thị trường nên Liên Xô không thành công trong việc thương mại hóa nhiều công nghệ tiên tiến phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.

Nguyên nhân chủ yếu là Liên Xô thiếu nền kinh tế thị trường ví như thiếu điều kiện đủ trong khi lại đang sở hữu một nguồn dồi dào các điều kiện cần. Kết cục là nền kinh tế Liên Xô muốn phát triển lại phải dựa vào thông tin định hướng từ phương Tây một cách thụ động.

Thái độ thụ động đó có lẽ phần nào giải thích vì sao vào thời kỳ những năm đầu thế kỷ XX, sau Cách mạng tháng 10, khi mà làn sóng thứ 3 của cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra ở Hoa Kỳ và Châu Âu tạo ra “ thời đại của điện và thép” thì Lê nin đã đưa ra công thức bất biến“ CNCS = Chính quyền Xô Viết + Điện khí hóa toàn quốc”

Các lý thuyết gia Xô Viết đã mắc một sai lầm lớn khi họ nhìn nhận rất cứng nhắc về quá trình chuyên môn hóa sản xuất và cho rằng phát triển điện, thép và các ngành công nghiệp nặng là bất biến, vĩnh viễn như một giáo điều. Sự xơ cứng trong tư duy phát triển này cũng là tất yếu khi bản thân Liên Xô không chấp nhận yếu tố thị trường, đồng nghĩa với việc chặn cửa tinh thần sáng tạo công nghệ và động lực kinh doanh làm giàu cho bản thân và xã hội của quảng đại quần chúng.

Cũng cần nhớ lại rằng Microsoft hay Apple khởi đầu từ những chàng trai trẻ rỗng túi nhưng chứa chan tinh thần kinh doanh sáng tạo và quyết tâm chinh phục thế giới chứ không phải là những viện nghiên cứu hay trường Đại học đồ sộ.

Khi tự nền kinh tế Liên Xô không có khả năng nhìn xa và luôn bị lệ thuộc vào thông tin từ Phương Tây thì “ lợi thế của người đi sau“ sẽ chấm dứt vào giai đoạn Liên Xô đã bắt kịp thậm chí vượt phương Tây về sản lượng điện, thép và ngũ cốc …

Trong khi  Liên Xô vẫn tiếp tục phân bổ nguồn lực vào các ngành công nghiệp nặng truyền thống với điện, thép, … thì phương Tây đã âm thầm thúc đẩy làn sóng thứ 4 của cuộc cách mạng công nghiệp tạo ra “ thời đại của ô tô và hàng không” với các sản phẩm ô tô, Polime hóa dầu, tự động hóa …rồi làn sóng thứ 5 tạo ra “thời đại của thông tin liên lạc” với các thiết bị điện tử, máy tính, internet và công nghệ sinh học, Nano .. .

Vào những năm cuối của mình Liên Xô không hề thiếu vốn, số liệu cho thấy vốn cố định tăng trung bình khoảng 7,6% /năm trong thời kỳ 1960-1981, cao hơn nhiều so với tỷ lệ 3,6% ở Hoa Kỳ và 3,4% ở Anh. Trong giai đoạn 1983-1987 con số này tiếp tục tăng khoảng 5,8% / năm. Tuy nhiên hiệu suất vốn của các ngành kinh tế công nghiệp nặng truyền thống lại giảm liên tục 3,5 % mỗi năm trong giai đoạn 1960-1981 và 3,8% mỗi năm giai đoạn 1983-1987, đó là tốc độ giảm mạnh nhất trong số các nước phát triển khác trong cùng giai đoạn.[2]Nhận định hợp lý ở đây là Liên Xô đã định hướng sai cho các luồng đầu tư do những thất bại của thông tin kinh tế từ trung ương.

Hiệu suất sử dụng vốn giảm dẫn tới sự tụt dốc tỷ lệ tăng trưởng vào cuối những năm 80. Nếu những năm 60 tỷ lệ này là 5,1% thì những năm 70 xuống còn 3,7% ; giảm tiếp 2% trong những năm 80 và vẫn tiếp tục giảm sau đó...[2]

 Sự tụt hậu và mất phương hướng của Liên Xô bắt đầu từ khi mà mọi nỗ lực “tái cơ cấu nền kinh tế “ đều thất bại do sự sáng tạo của các cá thể và doanh nghiệp là nguồn lực cơ bản thúc đẩy năng suất sau hơn 70 năm phát triển phi thị trường đã bị tê liệt. Hơn thế nữa cơ chế giá là biện pháp điều phối duy nhất các nguồn lực lại không được thiết lập theo đúng cơ chế thị trường mà vẫn bị tư duy chính trị và bộ máy hành chính quan liêu, tham nhũng chi phối nặng nề.

Nếu luận điểm của Lê Nin về cuộc chiến ai thắng ai giữa CNXH và CNTB dựa trên cơ sở so sánh năng suất lao động thì xu thế thất bại của Liên Xô đã rõ từ những năm 80.

Thiết nghĩ cũng cần nói thêm ở đây về bộ máy hành chính quan liêu trong nền kinh tế Xô Viết.

Trong nền kinh tế Phương Tây, một cách tự phát đã hình thành hàng trăm năm nay một hệ thống các tổ chức muôn màu, muôn vẻ có chức năng thực hiện những giao dịch phục vụ cho thị trường nhằm hỗ trợ quá trình chuyên môn hóa. Ví dụ như các hệ thống phân phối bán buôn và bán lẻ, hậu cần Logistic, các tổ chức tín dụng, chứng khoán, tư vấn pháp luật, kinh doanh, tư vấn tiêu dùng, bảo vệ người tiêu dùng, môi giới thương mại, đăng ký bảo hộ sở hữu tác quyền v.v…Khu vực dịch vụ phục vụ giao dịch thị trường này có ý nghĩa thực tiễn rất lớn nên được ví như “ hạ tầng cơ sở mềm” (Soft Infrastructure) của nền kinh tế thị trường. Tại Hoa Kỳ khu vực này năm 1970 đã chiếm hơn 50% tổng sản phẩm quốc nội với số việc làm tăng liên tục từ 26% lực lượng lao động vào năm 1940 lên 43% vào năm 1990. Trong khi đó lao động sử dụng trong khu vực dịch vụ của Liên Xô (chủ yếu là y tế, giáo dục và thương nghiệp) chỉ chiếm 10% tổng lao động.

Trong nền kinh tế Xô Viết hoạt động theo kế hoạch tập trung, phi thị trường thì khu vực dịch vụ này có ít cơ hội phát triển. Phần lớn các giao dịch trong nền kinh tế đều thông qua mệnh lệnh chỉ huy phát ra từ các cơ quan hành chính được hình thành theo nguyên tắc ngành và lãnh thổ. Nền kinh tế càng có quy mô lớn với những mối tương tác và giao dịch tăng với cấp số nhân thì bộ máy hành chính điều hành các giao dịch theo phương thức tập trung lại càng cồng kềnh và mang tính quan liêu nặng hơn. Thực tế này chẳng khác gì hình ảnh một tòa lâu đài đồ sộ nhưng lại được xây trên nền móng hẹp, nó khác hẳn với nền kinh tế thị trường phát triển cao ở Phương Tây sở hữu hạ tầng cơ sở mềm vững chắc là khu vực dịch vụ phục vụ thị trường phong phú, đa dạng và hiệu năng cao.

Xét cho cùng thì ngăn cấm thị trường cực đoan kiểu mô hình Xô Viết quan liêu bao cấp là một biểu hiện đặc trưng của chiếm đoạt quyền tự do, dân chủ trong kinh doanh và lựa chọn cơ hội mưu sinh cũng như thể hiện năng lực sáng tạo của mỗi cá nhân theo nguyên lý tiến hóa. Nếu kết hợp với những nhận định mang mầu sắc chính trị về sự suy thoái của ĐCS Liên Xô do nguyên tắc “tập trung dân chủ” trên thực tế luôn biến tướng thành “có tập trung nhưng mất dân chủ”  thì rất tự nhiên một câu hỏi sẽ được nêu ra: “vậy thì phải chăng hệ tư tưởng Mác – Lê, nền tảng của mô hình Xô Viết chính là một khiếm khuyết mang tính hệ thống vì nó mất dân chủ và ngăn cản sự tiến hóa như mọi chế độ toàn trị khác trong lịch sử ?” .

Và bánh xe lịch sử vẫn lừng lững đi tới nghiền nát tất cả những vật cản trên con đường tiến hóa của nhân loại.

Thực tế đã cho thấy khi ngọn cờ Mác- lê và vô sản không còn giúp ích cho Liên Xô và người Nga giành vị thế lãnh đạo thế giới nữa thì những đại diện tinh hoa của họ như Gorbachev, Elxin và Putin đã từ bỏ nó để quay về với chủ nghĩa dân tộc Nga vĩnh hằng và bất biến.

 Nói họ đã “ phản bội” chủ nghĩa Mác – Lê có lẽ là hơi hồ đồ vì người ta chỉ kết tội phản bội mục tiêu và lý tưởng chứ không ai bị kết tội phản bội cái công cụ để đạt mục tiêu cả .




Thăng long – Hà nội 12/11/2013
Phạm Gia Minh 
Theo Viet Studies







Bài mới đăng

Bài ngẫu nhiên